Wednesday, May 4, 2022

Đặt Câu hỏi về " Nguồn Gốc Loài Người"

 Vào năm 2008 trong chuyến thám hiểm một hang động ở Siberia, ngoài việc phát hiện ra chủng người hoàn toàn mới là Denisova thì các nhà khảo cổ học còn tìm thấy một chiếc vòng tay cẩm thạch được chế tác bằng một công nghệ rất hiện đại.


Điểm đáng chú ý là mặc dù chiếc vòng tay này có niên đại khoảng 40.000 năm nhưng vết khoan trên thân của nó được xác định là đã được thực hiện bằng một mũi khoan đặc biệt với dấu hiệu của công nghệ hiện đại. 


Vết khoan này là điều không tưởng, vì theo những gì chúng ta được biết thì vào khoảng thời gian , con người vẫn chưa có bất cứ công nghệ nào đủ mạnh và chính xác để khoan được một chiếc lỗ sắc nét đến như vậy. 


Sau khi kiểm tra và phân tích vết khoan thì các nhà khảo cổ xác định rằng nó được thực hiện bởi một mũi khoan cố định, có cơ chế giống những chiếc khoan thời hiện đại và được khoan với một tốc độ cực kì cao.


Việc công nghệ hiện đại này xuất hiện trước cả đoạn lịch sử được chúng ta ghi chép lại tới hơn 30.000 năm khiến cho các nhà khảo cổ học nghi ngờ rằng trước chúng ta đã từng có những nền văn minh tiên tiến và hiện đại tồn tại trên hành tinh này.



(Nguồn: Có thể bạn chưa biết)

Sunday, May 14, 2017

Những đôi mắt bí ẩn chưa tìm ra lời giải đáp

Có những người có đôi mắt rất khác thường, có thể là trắng xóa không có con ngươi hay đen sì không có lòng trắng. Đó là những đôi mắt có những khả năng siêu thường như nhìn xuyên cơ thể và đồ vật. Có người gọi đó là “mắt thần”, có người lại cho rằng đó là mắt quỷ. Tất cả đều là những hiện tượng thách thức các nhà khoa học.


Khi ánh sáng chiếu vào một vật, nó có thể bị vật phản xạ, hấp thụ, hoặc cho đi qua. Chiếu một chùm ánh sáng trắng vào một vật:– Nếu vật phản xạ tất cả ánh sáng có bước sóng khác nhau chiếu vào nó, thì theo hướng phản xạ ta sẽ nhìn thấy vật có màu trắng.Nếu vật hấp thụ tất cả các ánh sáng có bước sóng khác nhau chiếu tới, thì theo hướng phản xạ hoặc truyền qua ta nhìn thấy nó có màu đen.– Nếu vật hấp thụ đa số bức xạ chính trong quang phổ của ánh sáng trắng, nó sẽ có màu xám.Phần lớn các vật thể có màu sắc là do vật có cấu tạo từ những vật liệu xác định và vật hấp thụ một số bước sóng ánh sáng và phản xạ, tán xạ những bước sóng khác. Màu sắc các vật còn phụ thuộc vào màu sách của ánh sáng rọi vào nó và khi nói một vật có màu này nọ, là ta đã giả định nó được chiếu bằng chùm ánh sáng trắng

Tuy nhiên, ánh sáng mà chúng ta cảm nhận được chỉ nằm trong các bước sóng từ 280-720nm. Các photon có bước sóng dài hơn như sóng hồng ngoại, radio và ngắn hơn như tia X, tia cực tím nằm ngoài phổ này. Vì vậy, đó là lý do tại sao chúng ta không thể nhìn thấy chúng.

có những trường hợp cá biệt, người ta có thể nhìn thấy những photon bước sóng dài hơn và cả những bước sóng ngắn hơn phổ ánh sáng nằm trong vùng nhìn thấy của chúng ta. Hiện tại các nhà khoa học vẫn chưa có câu trả lời thích đáng cho các trường hợp đặc biệt này.

Từ “mắt thần”


Natasha Demkina sinh năm 1987, ở thành phố Saransk, Nga là một cô gái nổi tiếng với đôi “mắt thần” vì có thể nhìn xuyên thấu cơ thể và phát hiện ra bệnh tật. Từ khi sinh ra, Demkina cũng có đôi mắt như người bình thường, nhưng mọi chuyện thay đổi sau khi cô trải qua ca phẫu thuật ruột thừa năm lên 10 tuổi.

Vài ngày sau khi trải qua ca phẫu thuật , Demkina giật mình phát hiện và nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, bụng mẹ có hạt đậu và cái vòi xếp nếp kìa. Cả cái quả gì đo đỏ đang cử động nữa”.


Thấy con gái nói năng kỳ lạ, mẹ Demkina vô cùng hoảng sợ và nhanh chóng đưa con đến bệnh viện kiểm tra. Khi vừa đến bệnh viện, cô bé cũng khiến bác sĩ giật mình khi miêu tả các bộ phận trong cơ thể ông. Tuy nhiên, do không biết tên chính xác từng bộ phận nên em đã mô tả thận là hạt đậu, ruột là chiếc vòi xếp nếp…


Qua nhiều cuộc kiểm tra, các bác sĩ kinh ngạc phát hiện đôi mắt của Demkina có khả năng “chụp cắt lớp” cơ thể con người vô cùng chính xác, thậm chí có phần vượt trội hơn những thiết bị y tế hiện đại.


Năm 2005, Demkina được mời sang Nhật Bản. Giáo sư Yoshio Machi của Đại học Tokyo, một chuyên gia nghiên cứu nổi tiếng về các khả năng kỳ lạ của con người, đã hết sức bất ngờ về cô gái có “đôi mắt X-quang”.


Trong các cuộc nghiên cứu của Giáo sư Yoshi, cô thậm chí có thể nói chính xác bệnh tật của từng người ngay cả khi không nhìn thấy đối phương mà chỉ cần nhìn vào một tấm ảnh của người được hỏi. Hiện tại, cô đang làm việc cho Trung tâm Chẩn đoán đặc biệt ở Thủ đô Moscow để giúp đỡ các bác sĩ ở đây chẩn đoán bệnh.




Heise cũng có khả năng nhìn xuyên thấu cơ thể, phát hiện bệnh tật.


Demkina không phải là trường hợp duy nhất, cô Heise (19 tuổi) ở California (Mỹ) cũng có khả năng siêu phàm tương tự. Heise có đôi mắt đặc biệt ngay từ khi mới sinh ra. Cô có thể nhìn xuyên thấu cơ thể người và thấy được những màu sắc, vầng sáng tỏa ra xung quanh.


Khi trưởng thành, Heise bắt đầu phát hiện ra ý nghĩa của những màu sắc phát ra xung quanh cơ thể mọi người có liên quan đến tình trạng sức khỏe của họ. Cụ thể, những ánh sáng màu xanh hoặc bạch kim là dấu hiệu cho thấy cơ thể họ hoàn toàn khỏe mạnh. Nếu người nào phát ra ánh sáng màu nâu hay màu ghi nhạt là họ đang mắc phải một căn bệnh nào đó.


Các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực y tế cũng bất lực trước hiện tượng mang tên Heise. Trong khi khoa học hiện đại chưa thể giải thích được khả năng “siêu phàm” này, một số người đưa ra giả thuyết rằng, Heise có một “giác quan đặc biệt”. Thông thường, những người có giác quan đặc biệt sẽ cảm nhận được những điều kỳ diệu sau khi gặp phải những kích thích từ bên ngoài như khi ngửi hay nếm mùi vị, hoặc nghe thấy một điệu nhạc… Từ đó, họ sẽ có cảm giác như mình đang nhìn thấy một màu sắc phát ra từ cơ thể người nào đó.

Đến “mắt ma” Trong khi Demkina và Heise nổi tiếng với những đôi mắt thần, thì Laura Castro sống ở Miami, bang Florida, Mỹ lại là cô gái có đôi mắt “ma quái” khiến bác sĩ chuyên khoa không thể tìm ra lời giải thích thỏa đáng. Castro khiến mọi người hết sức kinh ngạc vì mắt của cô chỉ có lòng trắng và không thấy con ngươi.


Không chỉ vậy, đôi mắt “ma” của Castro còn có khả năng nhìn xuyên qua đá và kim loại.Từ khi mới sinh ra, Castro cũng có đôi mắt bình thường giống như những bạn bè cùng trang lứa. Tuy nhiên, từ năm lên 10, mắt của Castro có sự thay đổi kỳ lạ từ bình thường chuyển sang nâu vàng rồi dần dần thành màu trắng hoàn toàn.




Laura Castro với đôi mắt trắng xóa, không có con ngươi.

Castro còn có thể nhìn rõ mọi thứ cả ngày lẫn đêm. Mắt của con bé ngày càng trắng hơn và khả năng nhìn xuyên đồ vật mạnh hơn trước”.Các chuyên gia về mắt tại Mỹ cũng đã tiến hành các cuộc kiểm tra về khả năng nhìn xuyên thấu kỳ lạ của Castro. Họ rất ngạc nhiên khi Castro có thể nhìn xuyên qua cả khối bê tông dày hơn 10cm. Cô bé cũng nhìn thấy rõ mọi vật trong két sắt hay những thứ ẩn sâu trong những bức tường làm bằng đá dày hoặc gỗ,…Thấy màu mắt của con gái có sự thay đổi khác thường, bố mẹ Castro đã đưa cô bé đến bệnh viện kiểm tra. Nhưng các bác sĩ không thể tìm ra nguyên nhân về sự thay đổi màu sắc kỳ lạ này.

Mẹ của Castro, bà Anabel chia sẻ: “Các bác sỹ nói với chúng tôi rằng, kể từ khi vào nghề đến nay họ chưa từng gặp trường hợp nào kỳ lạ đến thế.

Mẹ của Castro cho hay, gia đình đã phát hiện ra khả năng nhìn xuyên thấu mọi vật của con gái mình lần đầu tiên vào một buổi sáng. Bà kể lại, lúc đó con gái bà rất sốc khi nhìn thấy rõ mọi bộ phận trong cơ thể sau khi thức dậy. Em nói với mẹ đang nhìn thấy rõ trái tim đang đập trong lồng ngực. Lúc đó, Castro vô cùng hoảng sợ. Sau vài tháng, cô bé đã dần thích ứng với khả năng đặc biệt của đôi mắt và không còn sợ hãi như trước.


Do có đôi mắt đặc biệt nên thời gian đầu, Castro bị bạn bè xa lánh, không chơi cùng. Bọn trẻ con rất sợ đôi mắt trắng xóa của cô bé, điều ấy khiến em vô cùng buồn bã. Tuy nhiên, nhờ sự động viên của gia đình, cô gái “mắt ma” hiện có rất nhiều bạn ở trường, trong nước cũng như trên thế giới.Cho đến nay, các nhà khoa học, chuyên gia mắt vẫn “đau đầu” đi tìm lời giải về sự thay đổi màu mắt cũng như khả năng nhìn xuyên đồ vật của Castro.

Theo kienthuc.net

Sunday, March 19, 2017

Ở hầu hết các loài, chung thủy chỉ là điều tưởng tượng

Thật thú vị là không phải chỉ có những người đàn ông ưa mạo hiểm thừa thãi hoocmon testosterone mới thích những cuộc phiêu lưu tình ái. Hành động này đã có từ rất lâu trong hàng chục nghìn loài sinh vật khác, xuất hiện ở cả con đực và con cái trên từng nhánh nhỏ của cây sự sống.
Sự lang chạ xảy ra rất phổ biến trong thiên nhiên. Bốn chữ “chung thủy đích thực” có lẽ chỉ là một điều có trong tưởng tượng. Ở động vật, con đực và con cái sống chung với nhau để nuôi nấng con non, cũng như chúng ta. Điều đó tạo nên sợi dây liên kết giữa cặp bố mẹ, hình thành khả năng chịu đựng đáng kinh ngạc và những tình cảm dành cho nhau. Để khẳng định lại mối quan hệ, các con vật thường dành hàng giờ bên nhau và thể hiện những hành động âu yếm. Đôi chuột đồng thì rúc vào nhau, những con vượn hát những bài tình ca, còn những con chim điên chân xanh lại nhảy những điệu vũ vụng về.
Tuy nhiên bằng phương pháp phân tích ADN, các nhà sinh học mới đây đã khám phá ra rằng quan hệ xã hội một bố một mẹ rất hiếm khi đi cùng với chung thủy trong sex và di truyền. Khi tiến hành xét nghiệm với các con non trong một lứa ở loài chim, chuột đồng, linh trưởng, cáo hay bất kì loài vật sống theo đôi nào, có khoảng 10 – 70% con non có ông bố “hàng xóm” chứ không phải ông bố đang chăm sóc chúng.
Giáo sư David P. Barash chuyên ngành tâm lý học thuộc đại học Washington tại Seattle đã có nhận xét khá tinh tế: Trẻ nhỏ có thời thơ ấu, còn người lớn có khi ngoại tình. Tiến sĩ Barash đã viết cuốn “Bí ẩn hôn nhân một vợ một chồng” cùng với vợ ông – bà Judith Eve Lipton - cũng là một chuyên gia tâm thần học. Tiến sĩ Barash có trích dẫn một cảnh trong bộ phim “Heartburn” trong đó nhân vật Nora Ephronesque phàn nàn với bố về tính lăng nhăng của chồng; ông bố đã trả lời đầy châm biếm: "Nếu con muốn được chung thủy thì lẽ ra con nên cưới một con thiên nga.” Nhưng hiện chúng ta đã biết cả những con thiên nga cũng không hề chung thủy. Thay vào đó, có lẽ Nora nên tìm đến loài giun dẹp Diplozoon paradoxum sống trong mang cá nước ngọt, “con đực và con cái sẽ tìm đến với nhau khi đến tuổi trường thành, cơ thể chúng sẽ dính vào với nhau và sống chung thủy như thế cho đến khi chết”. Tiến sĩ Barash cho biết: “Đó là loài vật duy nhất tôi được biết sống chung thủy 100% với bạn đời”. Nơi những trái tim thủy chung duy nhất bừng cháy lại thuộc về con cá vật chủ xấu số.
Các nhà khoa học thuộc đại học Adam Mickiewics và đại học Nam Bohemia đã mô tả trên tờ Animal Behaviour sự trao đổi ở loài chim bách thanh màu xám lớn. Những con chim giống ăn thịt đẹp mã với bộ áo choàng màu bạc, cái bụng trắng và đuôi đen, cũng giống như 90% các loài chim, đều kết đôi để sinh sản. Con chim đực mang đến cho bạn tình của nó những món “quà cưới”, đó có thể là những con vật loài gặm nhấm, thằn lằn, những con chim nhỏ hoặc những con côn trùng lớn được chúng xiên vào một cái que. Nhưng khi con đực muốn được thỏa mãn ngoài giờ, nó sẽ không ngần ngại mang đến cho cô bồ một món quà thậm chí còn to hơn món quà dành cho bạn đời của nó. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, món quà càng có giá trị, cơ hội con cái đồng ý thực hiện cuộc chơi càng lớn.
Một bài viết khác có tiêu đề “Trả tiền cho sex ở loài khỉ” trên tờ Animal Behaviour do Michael D. Gumert thuộc đại học Hiram thực hiện, đã đưa ra những kết quả nghiên cứu trong vòng 2 năm về một nhóm khỉ đuôi dài sinh sống gần khu du lịch sinh thái Rimba tại công viên quốc gia Tanjung Puting (Indonesia). Tiến sĩ Gumert đã xác định được rằng khỉ đực trả công cho bạn tình bằng một hành động mang đầy đủ ý nghĩa quan trọng và rất phổ biến ở loài linh trưởng: Chải lông. Ông nhận thấy, trong khi khỉ cái chải lông cho khỉ đực hoặc những con cái khác vì lý do xã hội nhằm xác nhận mối quan hệ của chúng hoặc để làm thân với con có ưu thế. Con mẹ chải lông cho con con để dỗ dành và giữ chúng sạch sẽ. Còn khi con đực dành thời gian để nhặt những con vật kí sinh trên người một con cái trưởng thành, nó mong muốn được trả công bằng sex hoặc ít nhất thì nó cũng được gần gũi với con cái. Tiến sĩ Gumert đã quan sát những lần con đực chải lông cho con cái, trong một cuộc phỏng vấn tại đại học công nghệ Nanyang (Singapore) ông cho biết: 89% trong số những lần quan sát “đều nhằm đến đối tượng là những con cái có khả năng giao phối” do đó con đực sẽ có cơ hội nhiều hơn.
(Ảnh: Nationalgeographic)Đặc biệt là những con đực thay đổi hành động chải lông của nó theo một phương thức kinh tế khác biệt, việc trả giá cao hơn hay thấp hơn phụ thuộc vào tính sẵn có cũng như chất lượng của sản phẩm và mức độ cạnh tranh của những người mua khác. Tiến sĩ Gumert cho biết: “Điều khiến tôi nghĩ hành động chải lông giống như một hình thức chi trả là việc quan sát thấy hành động đó biến đổi như thế nào trong những môi trường khác nhau. Khi có ít con cái, con đực sẽ chải lông lâu hơn. Khi có nhiều con cái, thời gian chải lông sẽ bị rút ngắn”. Con đực cũng chải lông cho những con cái giữ vị trí cao trong đàn lâu hơn đáng kể so với thời gian chúng dành cho những con cái có vị trí thấp.
Mặc dù hiện tượng “ngoại tình” rất phổ biến, các loài vật cũng đều thích thú, say mê khi có cơ hội, nhưng không một cá thể nào lại chấp nhận điều đó với bạn đời của mình. Con người cũng không phải là loài duy nhất cảm thấy bị xúc phạm khi bạn đời của mình có trót “lăng nhăng”. Phần lớn những con khỉ đầu chó cái cũng phải hy sinh nửa cái tai ở chỗ này, hay một miếng da ở chỗ kia khi đụng đầu con khỉ cái nhiều răng hơn, to lớn hơn và lại còn đang nổi cơn tam bành nữa. Đối với loài bọ hung, con đực và con cái sống chung với nhau để xây dựng gia đình, chúng thu nhặt phân và lăn những cục phân gom thành một khối lớn để con cái đẻ những quả trứng đã được thụ tinh của nó vào. Con đực có thể chớp cơ hội này mà tán tỉnh một hoặc hai con cái khác. Tuy nhiên làm thế có nghĩa là nó đang đùa với tính mạng của mình.
Trong một nghiên cứu với những con bọ hung đã có bạn đời, con bọ hung cái bị buộc bằng dây ở gần bạn đời của nó. Con đực nhanh chóng chớp cơ hội tiết pheromon mời gọi những con cái khác. Ngay sau khi được giải thoát khỏi sợi dây trói, con cái lao ngay vào con đực và đánh ngã nó không thương tiếc. Tiến sĩ Barash cho biết: “Ngay lập tức con cái lăn bạn đời của nó vào quả bóng phân, và thế cũng coi như một hình phạt thích đáng”.
Trong trường hợp những con kì giông lưng đỏ, cả con đực và con cái đều có khuynh hướng muốn kiểm soát bạn đời. Chúng sẵn sàng trừng phạt nếu nghi ngờ bạn đời mình lầm đường lạc lối. Hình phạt có thể là những hành động đe dọa như cắn vào miệng hoặc họng. Nhưng tàn nhẫn hơn cả là việc chấm dứt mối quan hệ. Hãy cảnh giác vì điều đó có thể xảy ra với chính bạn.
(Theo The New York Times)

Monday, February 27, 2017

RỐI LOẠN ĐA NHÂN CÁCH VÀ HÀNH VI PHẠM TỘI GIẾT NGƯỜI HÀNG LOẠT


William Stanley Milligan, tên thường gọi là Billy Milligan, sinh năm 1955, mắc hội chứng rối loạn đa nhân cách.

Năm 1975, Milligan bị bắt vì tội danh ăn cướp và hiếp dâm nhưng sau đó được ân xá năm 1977. Tháng 10/1977, Milligan lại bị bắt vì bắt cóc ba phụ nữ từ khuôn viên Đại học bang Ohio và hãm hiếp họ. Một trong những phụ nữ nói với điều tra viên rằng kẻ hiếp dâm nói giọng Đức, mặc dù Milligan sinh ra và lớn lên ở Mỹ. Một người khác nói kẻ hiếp dâm có vẻ tốt bụng và nếu ở hoàn cảnh khác, cô có thể xem xét việc hẹn hò với anh ta, theo Columbus Dispatch.

Milligan bị cáo buộc bắt cóc, cướp có vũ khí và hiếp dâm. Trong quá trình chuẩn bị biện hộ, Milligan đã được kiểm tra tâm lý và bác sĩ kết luận Milligan bị rối loạn đa nhân cách. Họ phát hiện có 10 nhân cách thay nhau kiểm soát anh này, mỗi nhân cách đều có tên riêng. Milligan đã vẽ một số nhân cách trong các bức tranh.

10 nhân cách được phát hiện là:

1. Billy Milligan là nhân cách chính.

2. Arthur là một người Anh rất tinh tế và hiểu biết rộng. Anh ta là một chuyên gia về khoa học và y học, đặc biệt là về huyết học. Arthur thường kiểm soát cơ thể vào những lúc đòi hỏi tư duy trí tuệ.

3. Ragen Vadascovinich là "người giữ lòng hận thù". Ragen mô tả mình là người Nam Tư, có thể viết và nói tiếng Serbia. Ragen rất khỏe và thường kiểm soát cơ thể vào những lúc nguy hiểm. Anh ta thừa nhận đã đi ăn cướp nhưng không biết gì về các vụ hãm hiếp.

4. Allen là người chuyên lừa đảo và là nhân cách thường xuất hiện khi chủ thể nói chuyện với người khác. Anh ta thích chơi trống và vẽ chân dung. Allen là nhân cách duy nhất thuận tay phải và hút thuốc lá.

5. Tommy thường bị nhầm lẫn với Allen. Anh ta chơi saxophone, tenor và là một chuyên gia điện tử, đồng thời cũng là người chuyên vẽ tranh phong cảnh.

6. Danny rụt rè, sợ gặp mọi người, đặc biệt là nam giới. Danny chỉ vẽ tranh tĩnh vật và không bao giờ vẽ tranh phong cảnh.

7. David, 8 tuổi, là người giữ những nỗi đau đớn. Cậu bé này hấp thu những nỗi đau của các nhân cách khác.

8. Christene, 3 tuổi, mắc chứng khó đọc nhưng Arthur đã dạy cô bé đọc và viết. Ragen cũng có tình cảm đặc biệt với cô bé này.

9. Christopher là anh trai của Christene, biết thổi harmonica.

10. Adalana người đồng tính nữ chuyên nấu bếp, dọn dẹp nhà cửa và sáng tác thơ. Adalana thừa nhận mình là người hiếp dâm các cô gái, trong khi Milligan và các nhân cách khác không có chút ký ức gì về việc đó.

Các chuyên gia tâm lý cho rằng Milligan mắc chứng rối loạn đa nhân cách do bị lạm dụng tình dục và tra tấn bởi cha dượng là Chalmer kể từ khi còn nhỏ. Chalmer phủ nhận tất cả những cáo buộc và không bị buộc tội.

yeu-rau-xanh-mang-trong-minh-24-nhan-cach-o-my
Billy Milligan (phải). Ảnh: Columbus Dispatch

Luật sư của Milligan đã biện hộ trước tòa rằng anh ta phạm tội khi đang mất trí. Họ nói rằng Billy Milligan thật "không có mặt" khi các vụ phạm tội xảy ra. Milligan đã "ngủ" phần lớn thời gian và các tội ác do hai nhân cách Ragen và Adalana gây ra. Milligan là người đầu tiên được trắng án với lý do rối loạn đa nhân cách.

Sau khi được trắng án, Milligan được đưa đi điều trị tâm thần. Các bác sĩ đã khám phá thêm 13 nhân cách khác. Đây là những nhân cách bị Ragen và Arthur đè nén, không cho phép kiểm soát cơ thể vì từng mắc lỗi hay khiến Milligan gặp rắc rối. Họ được gọi là "những nhân cách bị ghét bỏ".

11. Phil là một kẻ côn đồ nói giọng Brooklyn từng phạm một số tội nhỏ.

12. Kevin là người từng giúp lên kế hoạch cướp một cửa hàng thuốc.

13. Walter là người Australia có khả năng xác định phương hướng tuyệt vời nhưng bị Ragen và Arthur đè nén vì từng giết một con quạ.

14. April là người chỉ suy nghĩ về việc giết cha dượng. Cô này từng thuyết phục Ragen giết Chalmer nhưng Arthur đã ngăn cản việc đó.

15. Samuel là người Do Thái. Samuel không được phép kiểm soát cơ thể Milligan do đã đem bán một số bức tranh của nhân cách khác.

16. Mark là người chuyên lao động chân tay và khá tẻ nhạt, thường chỉ nhìn chằm chằm vào bức tường khi buồn chán.

17. Steve là người chuyên nhại người khác để diễn các trò hài hước nhưng việc đó lại khiến Milligan gặp nhiều rắc rối.

18. Lee là người hay chơi khăm và không quan tâm đến hậu quả hành động của mình.

19. Jason ban đầu là người chuyên giải tỏa áp lực cho "đại gia đình nhân cách" nhưng sau đó cũng gây ra quá nhiều rắc rối.

20. Bobby luôn mơ mộng được đi phiêu lưu hoặc giải quyết một số cuộc khủng hoảng toàn cầu nhưng lại không có chí tiến thủ.

21. Shawn, 4 tuổi, bị điếc.

22. Martin là người hợm hĩnh đến từ New York.

23. Timothy làm việc tại một cửa hàng bán hoa cho đến khi một người đàn ông đồng tính tán tỉnh anh ta. Kể từ sau đó, Timothy không được kiểm soát cơ thể.

Bác sĩ David Caul muốn điều trị cho Milligan bằng cách "hòa trộn" - kết hợp tất cả nhân cách thành một. Tuy nhiên, ông sau đó phát hiện ra bản thân Milligan đã có một nhân cách tổng hợp, gọi là "Người thầy".

"Người thầy" giúp các nhân khác tìm ra năng khiếu của mình và có ký ức về những việc các nhân cách khác làm nhưng lại không kiểm soát cơ thể. Caul phát hiện ra "Người thầy" trong một cuộc trò chuyện với Ragen.

Caul sau đó bật một đoạn ghi âm khi ông phỏng vấn nhân cách Ragen cho nhân cách chính Milligan nghe. Milligan nhận thức được rằng có những con người khác trong mình nhưng đó là lần đầu tiên anh ta thấy bằng chứng. Caul sau này đưa được"Người thầy" vào kiểm soát cơ thể Milligan vào tháng 5/1978. Đây là lần đầu tiên kể từ khi còn nhỏ Milligan cảm thấy mình là một con người thống nhất.


Năm 1988, các chuyên gia đồng ý rằng các nhân cách trong Milligan đã hợp nhất thành một và anh ta được xuất viện. Milligan sau đó sống cuộc sống lặng lẽ, tránh ánh mắt của công chúng, không liên lạc với người quen cũ. Milligan chết vì bệnh ung thư tại viện dưỡng lão ở Ohio năm 2014.

Rối loạn Đa Nhân Cách là gì? (tôi sẽ gọi tắt là Đa Nhân Cách)
Đa Nhân Cách không nằm trong tổ hợp những bệnh nhân cách như cái tên nó gọi, mà nó nằm trong tổ hợp các bệnh có liên quan đến chấn thương tâm lý như: Hậu Chấn Thương Tâm Lý Rối Loạn Căng Thẳng (PTSD), Rối Loạn Căng Thẳng Cấp Tính (ASD)…Đa Nhân Cách, PTSD và ASD có cùng một triệu chứng đó là sự tách rời nhận thức. Giống như PTSD là những người gặp chấn thương tâm lý quá nặng và sau đó đôi khi họ bị tách rời ra khỏi hiện thực họ đang sống, trải nghiệm cảm giác sống lại trong ký ức đáng sợ làm tổn thương tâm lý họ, Đa Nhân Cách cũng là sự tách rời ra khỏi hiện thực nhưng người mắc bệnh sẽ không nhớ gì và cũng không biết được là mình đã làm gì trong khoảng thời gian bị tách rời nhận thức ấy. Đa số sẽ cho rằng mình đang ngủ nhưng thực chất không phải. Và vì thế, từ DSM-IV, Đa Nhân Cách có tên gọi khác là Rối Loạn Tách Rời Nhận Thức (Dissociative Identity Disorder).

Một trong những đặc điểm chính của Đa Nhân Cách là người bị bệnh mất khả năng nhớ lại một số thông tin quan trọng về mình, những sự kiện lớn mà không thể giải thích được bằng từ “quên” bình thường. Nói đơn giản một chút, sẽ có những khoảng thời gian trống trong ký ức mà người bệnh không tài nào nhớ nổi. Có những chuyện quan trọng đã xảy ra trong quá khứ nhưng người bệnh không hề có một chút ý thức gì về nó cả, người bệnh không hề có một ý cảm giác hay ý thức gì về những nhân cách còn lại của mình. Sự rối loạn này phải không xuất phát từ thuốc, chất kích thích hay bất kỳ tình huống y khoa nào để được coi là Rối loạn đa nhân cách. Ví dụ như trường hợp của bệnh nhân dưới đây.

Mary Kendall là một nhân viên xã hội, cô năm nay 35t. Cô vốn được cho là một người rất tháo vát trong công việc của mình, nhưng lại có một cuộc sống riêng khá nhàm chán. Cô đã từng kết hôn một lần rồi li di vào 10 năm trước và chẳng hề có ý định kết hôn lại. Đa số khoảng thời gian rảnh rồi, cô đều tham gia tình nguyện ở mấy nhà tế bần chuyên giúp đỡ người nghèo. Trong lúc được chuẩn đoán tâm lý, cô kể lại một vài sự kiện lạ mà cô không thể nào giải thích nổi. Lúc Mary xong việc về nhà, bình gas của cô gần đầy, nhưng đến khi cô khởi động xe để đi làm vào sáng hôm sau, nó đã vơi đi quá nửa. Cô bắt đầu theo dõi chỉ số dặm mà cô đã chạy rồi phát hiện số xăng biến mất kia ứng với quãng đường 50-100 dặm trên đồng hồ. Có điều, cô không tài nào nhớ được mình đã đi đâu. Những câu hỏi đi sâu vào hơn nữa đã tiết lộ ra trong trí nhớ của cô có một lỗ hổng lớn về thời thơ ấu

Trong lúc được chữa trị bằng liệu pháp thôi miên, người chữa trị lại hỏi một lần nữa kí ức về khoảng thời gian mà cô không nhớ rõ. Bất chợt, có một giọng nói khác trả lời, “Đã đến lúc anh nên biết về tôi rồi đấy” . Nhân cách đó có cái tên chỉ khác đi một chút, Marian, kể và mô tả những chuyến đi đêm của cô đến những ngọn đồi gần đó hoặc bờ biển để “giải quyết vấn đề” . Trong khoảng thời gian này, người chữa trị đã có dịp tiếp xúc nhiều hơn với Marian, phát hiện ra cô thô lỗ và bất hợp tác còn Mary thì nhu nhược và biết quan tâm đến người khác. Marian nghĩ rằng Mary là kẻ yếu đuối và không biết cách làm bản thân vui vẻ, còn nói rằng “chỉ biết có người ngoài mà không biết lo cho bản thân mình chỉ phí thời gian thôi”

Thời gian trôi đi, thêm sáu nhân cách nữa bắt đầu hiện ra theo kiểu phụ thuộc/hung hăng. Áp lực và bất hòa căng thẳng nổi lên. Ai cũng muốn chiếm quyền điều khiển lâu hơn và Marian thì khơi dậy những tình huống hù dọa các nhân cách kia, bao gồm một nhân cách tự nhận cô chỉ là một đứa trẻ sáu tuổi. Khi người chữa trị đề nghị muốn bàn thảo vấn đề với một nhân cách khác thì cô bé không chịu, bảo rằng làm như thế sẽ xâm hại đến quyền riêng tư giữa bệnh nhân và bác sĩ.

Ký ức xuất hiện cùng với những nhân cách này là khoảng thời gian lúc còn nhỏ mà Mary không tài nào nhớ được. Mary nhớ về mẹ của cô như một người khắc khổ, chịu đựng những trận bạo hành, nhưng lại phụ thuộc vào người cha độc ác kia và bắt Mary phải nấu ăn và dọn dẹp từ khi còn rất nhỏ.

Chứng rối loạn đa nhân cách phản ánh sự thất bại trong việc thống nhất tất cả những khía cạnh của tính cách, trí nhớ và ý thức. Mỗi một trạng thái nhân cách có thể trải nghiệm từng khoảng ký ức nhất định và riêng biệt so với các nhân cách còn lại. Thường thì có một nhân cách chính mang tên thật ( tên được ba mẹ đặt và hiện diện trên giấy tờ hành chính) và nhân cách này luôn ở thế bị động, phụ thuộc, hay mang cảm giác tội lỗi và trầm uất. Những nhân cách còn lại có những tên riêng khác biệt và có tính cách trái ngược hẳn với nhân cách chính. Nếu như nhân cách chính ngoan hiền, vâng lời, thì các nhân cách còn lại thương là hung hăng và nổi loạn. Những nhân cách đặc biệt thường hiện ra trong một số tình huống nhất định và tuỳ theo độ tuổi, giới tính , ngôn ngữ, thường thức hoặc có những tác động chiếm ưu thế lên nhân cách chính. Những nhân cách xen kẽ kia chiếm quyền điều khiển liên tiếp nhau (nhân cách chính vừa mất quyền điều khiển là các nhân cách khác lần lượt nổi lên) , thường các nhân cách này không chấp nhận những kiến thức, sự hiểu biết của nhân cách kia, chỉ trích lẫn nhau hoặc xuất hiện cùng lúc. Giữa các nhân cách xen kẽ thì sẽ có một nhân cách mạnh hơn, nắm quyền lãnh đạo và phân phối thời gian cho những nhân cách còn lại.

Cá nhân người mang bệnh Rối loạn đa nhân cách này sẽ trải nghiệm những khoảng trống trong trí nhớ, về quá khứ lẫn hiện tại. Sự lãng quên này thường bất đối xứng. Nhân cách chính nào càng thụ động thì càng có ít ký ức về mình, và ngược lại, nhân cách nào càng hung hăng, chống đối , có ý điều khiển hoặc “bảo vệ” thì sẽ có nhiều ký ức hoàn chỉnh về mình. Những nhân cách khi không nắm quyền điều khiển vẫn có thể xâm nhập vào ý thức của nhân cách còn lại bằng việc tạo ra những thanh âm hoặc ảo giác ( ví dụ như ra lệnh ). Những bằng chứng về sự lãng quên và hiện diện của nhân cách khác thường được phát hiện bởi những người có dịp chứng kiến những hành vi mà thường nhân cách chính sẽ không bao giờ làm, hoặc được phát hiện ra bởi nhân cách chính ( tìm thấy những món đồ mà mình không thể nhớ là đã mua lúc nào) . Sự luân phiên thay đổi quyền điều khiển giữa các nhân cách thường xuất hiện dưới những áp lực về tâm lý. Và thời gian chuyển đổi giữa hai nhân cách chỉ xảy ra trong tích tắc. Những biểu hiện thường xuất hiện cùng với sự chuyển đổi nhân cách này thường là nháy mắt không ngừng, cơ mặt thay đổi , giọng nói khác hẳn . Số nhân cách thường ở trong khoảng từ hai cho đến mười.

2. Nguyên nhân gây ra Rối Loạn Đa Nhân Cách và cách chữa trị.
Cách đây hai năm tôi có nói trong bài viết cũ là chấn thương tâm lý gây ra Đa Nhân Cách. Thế nhưng những nghiên cứu mới đây về những hệ quả lâu dài của bạo hành trẻ em, người ta tìm rất ít bằng chứng về việc trẻ em bị bạo hành lớn lên sẽ bị rối loạn đa nhân cách. Vì những trường hợp về Đa Nhân Cách được nhiên cứu dưới dạng case study, tức là từng trường hợp riêng biệt, thế nên không thể tạo ra được kết luận dành chung cho tất cả bệnh nhân. Hơn nữa, những case studies này đa phần là dựa vào trí nhớ của người bệnh mà trí nhớ thì có thể lựa chọn, hoặc tái tạo lại bởi người bệnh cho phù hợp với những gì bác sĩ đoán.

Điều này nghĩa là sao? Có hai bộ phim nói về Đa Nhân Cách nổi tiếng là “Ba bộ mặt của Eve” (Three Faces of Eves) và Sybil. Ngay khi hai bộ phim này vừa ra đời thì tỷ lệ người mắc bệnh Đa Nhân Cách tăng vọt trong hai thập niên tiếp theo, trong khi trước đó chỉ có khoảng 200 trường hợp bệnh được ghi lại trên toàn thế giới trong các nghiên cứu từ trước cho tới năm 1980. Có một trường hợp bệnh nhân nghe y tá nói rằng bác sĩ nghi ngờ bà ta có thể mắc chứng Đa Nhân Cách, thế là bà thay đổi triệu chứng của mình sao cho giống với triệu chứng của những người mắc Đa Nhân Cách. Thậm chí, bà còn tự tao ra một nhân cách khác và đặt tên cho nó. Nhưng bà không trải nghiệm sự đứt đoạn trong ký ức. Trí nhớ của bà vẫn hoàn chỉnh và không hề có dấu hiệu bất thường nào.

Vì những lý do trên mà bệnh rối loạn đa nhân cách vẫn còn nằm trong vòng tranh cãi. Nhiều chuyên gia cho rằng bệnh này không có thật khi có rất ít bằng chứng về nguyên nhân gây ra Đa Nhân Cách. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận rằng chấn thương tâm lý dù ít dù nhiều vẫn có ảnh hưởng lên đến tâm lý và nhân cách người bệnh.

Hiện nay không có thuốc nào chữa trị bệnh Đa Nhân Cách vì người ta tìm ra rất ít những bằng chứng có liên quan đến sinh lý. Mục tiêu chính của việc chữa trị là kết nối và thống nhất các nhân cách lại với nhau thông qua thôi miên và phân tâm học. Sau bốn năm điều trị thì nhân vật Mary trong case bệnh tôi nói trên đã dung nhập được hai nhân cách lại làm một. Tuy vẫn còn sự đề phòng và đấu đá giữa các nhân cách nhưng sự dung nhập này khiến Mary phần nào dễ dàng hơn trong việc quản lý các nhân cách còn lại.

3. Liệu người mắc Đa Nhân Cách có phạm tội và giết người hàng loạt như phim ảnh và tiểu thuyết mô tả hay không?
Hoàn toàn không. Một số bộ phim lẫn lộn triệu chứng giữa hai bệnh Tâm thần phân liệt hoang tưởng và Đa Nhân Cách. Triệu chứng Tâm thần phân liệt hoang tưởng là thường nghe thấy một giọng nói khác trong đầu mình mang đầy vẻ tiêu cực, công kích và nghi ngờ kẻ khác, cho rằng tất cả mọi người đều mang ý xấu. Nó khiến cho bệnh nhân làm ra hành vi tổn thương người khác như đánh nhau, chửi bới, hoặc thậm chí giết người. Vì người bệnh Tâm thần phân liệt nghe tiếng nói khác vang lên trong đầu, họ nghĩ rằng mình có một nhân cách khác mà không biết rằng tiếng nói ấy chỉ là ảo tưởng, có thể là hệ quả của sự rối loạn nội tiết tố, hoặc rối loạn thần kinh. Vì sự hiểu làm này mà nhiều năm về trước, bệnh Đa Nhân Cách từng được cho là một dạng khác của bệnh Tâm Thần Phân Liệt nhưng thực tế hai bệnh này hoàn toàn khác nhau. Thế cho nên Đa Nhân Cách đã được dời ra khỏi mục Tâm thần phân liệt và được xếp vào Rối loạn tách rời nhận thức. Người mắc bệnh rối loạn Đa Nhân Cách hầu như không hề biết được sự tồn tại của các nhân cách khác cho đến khi họ đi khám và được nhân viên trị liệu cho biết. Hơn nữa, chưa có trường hợp bệnh nhân Đa Nhân Cách nào giết người vì căn bản sự hình thành của các nhân cách này là để bảo vệ chứ không phải gây tổn hại. Đó là một kiểu trốn chạy khỏi hiện thực của nhân cách chính.

4. Tỷ lệ người mắc Đa Nhân Cách là nhiều hay ít?
Rất hiếm, cực kỳ hiếm. Người thực sự mắc bệnh Đa Nhân Cách không nhiều. Thế nên nhiều nhà nghiên cứu mới tranh luận rằng Đa Nhân Cách không thật sự tồn lại mà nó giống như là sự nhập vai (role enactment) thì hơn. Lý do những nhà nghiên cứu này đưa ra là tỷ lệ mắc bệnh Đa Nhân Cách giảm mạnh khoảng giữa những năm 1990 (sau khi bộ phim Sybil ra đời một khoảng thời gian). Và bệnh Đa Nhân Cách chỉ được chẩn đoán ở Mỹ và Canada, còn những nước khác trên thế giới thì rất hiếm. Điển hình là chỉ có 1 trường hợp ở Anh được ghi nhận trong 25 năm trở lại.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bệnh Đa Nhân Cách không thực sự tồn tại mà đó là sự ảnh hưởng của nhà tâm lý trị liệu lên người bệnh. Martin Orne, nhà tâm lý học trị liệu và thôi miên nổi tiếng trên toàn thế giới đã thử “bẫy” Kenneth Bianchi hay còn gọi là “Kẻ thắt cổ vùng Hillside” (Hillside Strangler). Hắn đã siết cổ và giết chết 27 cô gái. Khi đưa ra tòa, các bằng chứng đều chỉ tội hắn nhưng hắn lại bảo mình có những lúc không nhớ gì và có khoảng trống trong ký ức về những đêm mà hắn phạm tội. Vì thế bên công tố đã chỉ định một nhà sức khỏe tâm lý khám cho hắn. Khi viên tâm lý này khám cho hắn ta thì nói “Tôi đã nói chuyện với Ken rồi, nhưng tôi nghĩ có một phần khác của Ken (gọi tắt của Kenneth) mà tôi chưa nói chuyện cùng.” Thế là Bianchi bảo rằng mình không phải là Kenneth mà là Steve, và Steve thì ghét Ken, và Steve chính là người giết 27 cô gái kia.

Có rất nhiều chuyên gia tranh cãi rằng triệu chứng Đa Nhân Cách của hắn không có thật. Orne đã kiểm tra bằng cách giả vờ gợi lên một triệu chứng mới cho Bianchi. Ông nói với hắn ta rằng, “Nếu cậu bị mắc Đa Nhân Cách thật thì cậu nên có một nhân cách thứ ba.” Vì khi được khám bởi nhà sức khỏe tâm lý thì Bianchi chỉ có nhân cách thứ hai tên là Steve. Nếu hắn ta thực sự đang giả bệnh thì hắn sẽ tự tạo cho mình một nhân cách thứ ba. Tất nhiên, nhân cách thứ ba, Billy, xuất hiện khi Bianchi bị “thôi miên.” Khi bị thôi miên, hắn ta làm theo sự gợi ý của Orne là hãy tưởng tượng vị luật sư của hắn đang ở trong phòng. Bianchi còn thực sự bắt tay với vị luật sư tưởng tượng đó, một hành vi cực kỳ không bình thường với những người bị thôi miên. Và tất nhiên. Và thế là Orne kết luận rằng Bianchi không mắc chứng Đa Nhân Cách mà hắn mắc chứng Rối loạn nhân cách phản xã hội. Bạn nào theo dõi page thường xuyên sẽ biết bệnh này có triệu chứng là người mắc bệnh hay giả dối, xâm phạm lợi ích người khác để trục lợi cho bản thân… Lý do “bị điên” của Bianchi bị từ chối và hắn bị kết tội giết người.

Từ câu chuyện phía trên chúng ta có thể thấy rằng chuyên viên chữa trị có thể tác động lên bệnh nhân bằng những câu hỏi “dẫn đường” sai lầm như thế nào. Có nhiều trường hợp bệnh nhân không thực sự mắc Đa Nhân Cách, nhưng bởi vì họ muốn đáp lại sự kỳ vọng của chuyên viên chữa trị mà tự bắt buộc bản thân thể hiện những triệu chứng giống Đa Nhân Cách mà tôi đã đưa ra ví dụ trong câu hỏi số 2.

5. Có hay không chuyện các nhân cách trò chuyện với nhau?
Có thể có sự giao lưu giữa các nhân cách phụ, nhưng hầu như không có sự liên lạc giữa nhân cách phụ và nhân cách chính trước khi được chữa trị. Như tôi đã nói rất nhiều lần là bệnh nhân không hề biết đến sự tồn tại của các nhân cách khác và chỉ thực sự “liên lạc” khi đến khám tại các chuyên gia tâm lý và được họ cho biết. Thế nên việc bỗng dưng nghe được giọng nói, tự trò chuyện trong đầu xảy ra trước khi người bệnh gặp chuyên viên tâm lý và chẩn đoán thì nó giống như triệu chứng bệnh Tâm thần phân liệt hơn.

6. Nhân cách có giống Tính cách hay không?
Tính tình tôi thay đổi thất thường, có khi tôi rất vui vẻ và hòa nhã, có khi tôi cáu gắt và nóng nảy. Liệu tôi có mắc Đa Nhân Cách?

Nếu bạn đọc bài này của tôi từ đầu đến đây thì bạn sẽ có câu trả lời cho câu hỏi này. Nhân cách khác hẳn tính cách. Tính cách là tổ hợp những đặc điểm về tâm lý và các cơ chế giải đáp thông tin của một cá nhân được sắp xếp có tổ chức và tồn tại một khoảng thời gian, gây ảnh hưởng đển sự giao thoa giữa người ấy và sự thích nghi với tâm lý bên trong, sinh lý và xã hội. Còn nhân cách là sự nhận định của một người về bản thân mình và những cá nhân khác trong cùng một hội nhóm mà người đó thuộc về. Ví dụ như trong trường hợp trên, Mary là một nhân cách chính với tính cách thụ động, hiền hòa, còn Marian là nhân cách thứ hai với tính cách gắt gỏng, nóng nảy và dữ dằn.

Tính thay đổi thất thường không phải là triệu chứng của bệnh Đa Nhân Cách. Trong tâm lý tính cách con người mà tôi đang học có một định nghĩa gọi là tính cách xã hội (Social Personality) nghĩa là trong từng môi trường nhất định, bạn có những biểu hiện, hành vi, suy nghĩ khác nhau để cho phù hợp với môi trường đó. Ví dụ như bạn không thể dùng cách suy nghĩ, hành xử khi bạn ở trước mặt bạn bè với cha mẹ hay anh chị bạn. Môi trường khác nhau ảnh hưởng đến con người khác nhau. Nó giống như là kiểu nhập vai mà tôi nói ở phía trên. Bạn vẫn là bạn, bạn chỉ đang thích nghi với từng môi trường khác nhau chứ không phải là bạn có nhiều nhân cách khác nhau. Phải nói là bạn có nhiều tính cách khác nhau tùy vào môi trường mà bạn sinh hoạt và làm việc nhưng bạn chỉ có một nhân cách mà thôi.
(Sưu tầm và biên tập)
Nguồn:
http://tamlyhoctoipham.com/roi-loan-da-nhan-cach-chinh-sua-va-viet-lai-theo-dsm-5
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/tu-lieu/yeu-rau-xanh-mang-trong-minh-24-nhan-cach-o-my-3544405.html

Saturday, January 14, 2017

10 Kỹ Năng Sinh Tồn Có Thể Cứu Sống Bạn Lúc Nguy Cấp


Sau đây là 10 kỹ năng sinh tồn bạn nên thuộc nằm lòng, chúng có thể cứu mạng sống của bạn lúc nguy cấp. Tai họa không bao giờ báo trước, đút túi vài quy tắc sau lúc hiểm nguy sẽ rất hữu ích cho bạn.


 10 kỹ năng sinh tồn có thể cứu mạng bạn


1. Đi tắm biển mà bị sóng cuốn ra xa, hãy bình tĩnh định hướng và bơi song song với bờ biển một lúc sau bạn sẽ thoát khỏi chúng.



2. Lúc gặp nạn, cần sự giúp đỡ đừng hô hoán chung chung: Ai cứu tôi với, hãy gọi kèm theo đặc điểm nhận dạng. Ví dụ: “Anh áo đỏ ơi giúp em với!”


3. Nằm lòng quy tắc số 3:
  • Người bình thường chưa qua luyện tập, chỉ có thể thiếu không khí tối đa 3 phút 
  • Dưới điều kiện khác nghiệt không có bảo hộ, chỉ sống sót tối đa 3 giờ 
  • Chỉ có thể nhịn khát tối đa 3 ngày 
  • Chỉ có thể nhịn ăn tối đa 3 tuần 


4. Hầu hết các điện thoại đều có thể gọi số khẩn cấp ngay cả khi không có sim


5. Nếu mắc kẹt ở nước ngoài hãy gọi 911 hoặc 112


6. Khi chụp hình có đèn flash bị hiện tượng mắt đỏ ở cả 2 mắt là bình thường, nhưng nếu 1 mắt đỏ, 1 mắt màu khác, là dấu hiệu ung thư mắt. Nên đến bệnh viện kiểm tra ngay.

Phát hiện ưng thư mắt khi chụp ảnh có đèn flash

7. Nếu bị kẹt trong một ngôi nhà bị cháy, hãy tìm cách di chuyển càng sát mặt đất càng tốt. (Có thể bò hoặc trườn) Hơi nóng có xu hướng bốc lên cao còn không khí thì tích tụ sát mặt đất


cách di chuyển 

8. Đàn ông có thể dùng que thử thai để kiểm tra nguy cơ mắc bệnh ung thư tinh hoàn. Nếu bạn đi tiểu lên đó và que báo “hai vạch”, bạn thực sự phải đến bệnh viện kiểm tra ngay lập tức!



9. Mẹo lọc nước bẩn: Hãy cho nước bẩn vào một cái bình và để cao hơn bình đựng nước sạch. Dùng một miếng khắn giấy cuộn lại và để 2 đầu vào 2 bình sao cho chúng chạm đáy. Nước sẽ ngấm vào khăn giấy và chảy sang bên bình kia, để lại cặn bẩn.


Cách lọc nước bẩn

10. Xác định phương hướng khi bị lạc bằng lá cây: Dùng một cây kim hoặc một vật dụng nào đó tương tự, cọ xát 1 đầu vào quần áo, việc này sẽ biến chiếc kim thành một cục nam châm. Bây giờ đặt một chiếc lá vào vũng nước và đặt chiếc kim lên trên cái lá đó. Đầu bị cọ xát chỉ về hướng nào thì hướng đó là hướng Bắc.


Tạo la bàn xác định phương hướng bằng lá cây và thanh kim loại

Friday, October 14, 2016

Con người là loài động vật ăn thịt, ăn cỏ hay ăn tạp?


Điều gì quy định một loài động vật sẽ ăn cỏ hay ăn thịt? Loài ăn thịt có ăn cỏ được không?

Động vật ăn cỏ hay ăn thịt là do một loại men trong dạ dày quy định, có khoảng 20 loại men khác nhau. Trong hệ tiêu hóa của hổ, báo hay những loài chuyên ăn thịt có loại men proteinara và lipidara giúp thúc đẩy mạnh sự tiêu hóa của protein và mỡ trong thức ăn.


Thế nhưng, hệ tiêu hóa của chúng lại không có men xenluloara để tiêu hóa xenlulo thực vật. Bởi thế mà chúng chỉ ăn thịt chứ không ăn cỏ. Còn với động vật chỉ ăn cỏ thì ngược lại, hệ tiêu hóa của chúng chỉ có men xenluloara mà không có hai loại men kia dẫn đến việc chúng chỉ ăn cỏ mà không ăn thịt.

Con người ăn được cả thịt và thực vật, vậy con người thuộc động vật ăn cỏ hay ăn thịt?


Những nghiên cứu chứng minh là trên phương diện giải phẫu học và sinh lý học, con người khác với động vật ăn thịt. Thí dụ dạ dày người và động vật ăn cỏ thì dài và chứa ít muối acid và pepsin còn động vật ăn thịt thì bao tử hình cái túi và chứa 10 lần muối acid cho phép tiêu hóa xương và cơ thịt súc vật. Ruột của người và loài ăn cỏ thì rất dài và có diện tích rất lớn trong lúc ruột loài ăn thịt thì ngắn và láng để cho thịt thối rữa thoát ra ngoài nhanh chóng. Ngoài ra trong khi hấp thụ thịt, những độc tố trong quá trình thối rữa, sẽ có nguy cơ làm hại thận và gây ra chứng bệnh thống phong (goutte), bệnh viêm khớp (arthrite), thấp khớp (rhumatise) hay ung thư (cancer). Nhà nghiên cứu người Thụy Ðiển Karl von Linne nói về chủ đề này


1) Khác biệt giữa động vật ăn cỏ và động vật ăn thịt


Cấu trúc của bên ngoài và bên trong


Bảng so sánh giữa động vật ăn thịt, ăn cỏ và người


2) Thiên nhiên đã chỉ định cho chúng ta ăn gì?


Những cuộc nghiên cứu gần đây của các khoa học gia đã chứng minh rằng trên phương diện sinh lý, con người khác với vật ăn thịt. Thí dụ ăn rau đậu giúp ích cho cơ thể của con người, làm cho có thêm sức khỏe và sống lâu hơn. Các cuộc thí nghiệm dựa vào hai yếu tố: cấu trúc của cơ thể con người theo giải phẫu học và thứ hai và tiến trình tiêu hóa của rau và thịt trong cơ thể của con người.


a) Bàn tay và răng của loài người.


Răng của loài người được cấu tạo môt cách đặc biệt giống như răng của các loài động vật ăn thảo mộc, dùng để nghiền và nhai nát các thức ăn. Loài người và loài động vật ăn thảo mộc không có răng cửa và răng nanh bén nhọn và đủ sức mạnh như loài động vật ăn thịt, nhưng có răng hàm và xương quai hàm để nhai theo cử động chiều ngang và qua lại.


Ðộng vật ăn thịt có răng nanh rất bén nhưng không có răng hàm và xương quai hàm. Do đó khi ăn thịt, chúng chỉ xé và nuốt trọng luôn chớ không nhai.


Bàn tay của loài người không có móng vuốt sắc bén nên chỉ dùng để hái trái, trong khi loài động vật ăn thịt có móng vuốt rất bén và rất mạnh để vồ mồi và xé thịt.


b) Sự tiêu hóa


Trong bao tử của loài động vật ăn thịt, dịch tiêu hóa chứa đến 10 lần lượng acid clohydric nhiều hơn ở trong bao tử của loài động vật ăn rau quả và loài người. Sự khác biệt chủ yếu trong bộ phận tiêu hóa của loài động vật ăn rau quả và loài người với loài động vật ăn thịt là đường ruột, nơi thức ăn được tiêu hóa để biến thành dưỡng chất rồi được hấp thụ vào máu. Sau khi màng ruột đã tinh lọc lấy chất dinh dưỡng rồi, chất cặn bã còn lại sẽ tích lũy lâu trong cơ thể và sẽ sinh ra nhiều độc tố, nguyên nhân và mầm móng gây ra các bệnh tật nguy hiểm. Để giúp loài thú có thói quen ăn thịt ít bị các chứng bịnh hiểm nghèo, đường tiêu hóa của chúng chỉ dài gấp 3 lần chiều dài của cơ thể. Trong khi đó đường tiêu hóa của loài người và loài động vật ăn rau quả thì dài gấp 6 lần chiều dài của thân thể. Vì thế chất cặn bã ở trong ruột của loài thú ăn thịt sẽ được bài tiết ra ngoài nhanh chóng hơn, khỏi bị nhiễm trùng vi sự thối rã của thức ăn. Trong khi đó chúng sẽ ở lại trong ruột của loài người và loài động vật ăn cây cỏ lâu hơn, sanh ra độc tố nhiều hơn.

Theo nguyên tắc, con người hoàn toàn có thể ăn được cỏ; nó không độc và nhai được. Mặc dù là một nguồn thực phẩm dồi dào. Tuy nhiên,con người vẫn không thể xơi món thực vật này.

Có 2 nguyên nhân chính cho vấn đề đó. Đầu tiên là dạ dày con người rất khó tiêu hoá lá cây và cỏ sống do không có enzim giúp phân hủy xenlulozo. Trong khi đó, những động vật như bò có một dạ dày chuyên biệt có 4 ngăn để giúp chúng tiêu hoá cỏ, diễn ra trong một quá trình gọi là nhai lại và có men xenluloara để tiêu hóa xenlulo thực vật.


Bên cạnh khó khăn trong việc tiêu hoá, cỏ còn gây hại cho răng người. Cỏ chứa rất nhiều silic đioxyt, một chất bào mòn có thể làm răng bạn bị hư hỏng nhanh chóng. Những động vật ăn cỏ có hàm răng mọc liên tục để thay thế những chiếc răng bị bào mòn.

Con người không thể hấp thụ chất xơ thực vật nhưng đối với các loại thực phẩm có nguồn gốc thực vật như rau, củ, quả, các loại hạt,... cung cấp cho con người các chất chống oxy hóa, vitamin, chất khoáng.

Các thực phẩm nguồn gốc thực vật không có các vitamin quan trọng như vitamin A, D, B12 và các chất khoáng dễ đồng hóa, dễ hấp thu như canxi của sữa, sắt - thường chỉ có trong thức ăn động vật... Vì thế, tình trạng thiếu vitamin B12, khô mắt, thiếu máu hay gặp ở những người ăn thức ăn thực vật là chủ yếu hoặc ở những người ăn chay.

Có thể nói con người là loài động vật ăn tạp, có nghĩa vừa có thể ăn thịt vừa có thể ăn thực vật.

Từ góc độ giải phẩu học thì cơ thể con người phù hợp với cấu trúc của động vật ăn thực vật, nhưng hiện tại, con người vừa có thể ăn thực vật vừa có thể ăn động vật. Điều này cho thấy con người đã chuyển hướng từ động vật ăn thực vật sang động vật ăn tạp. Còn lý do tại sao họ lại chuyển đổi chế độ ăn uống thì có lẽ nên đọc các nguyên cứu khác. Quá trình chuyển đổi này có dừng lại ở đây hay chuyển hẳn sang chuyên biệt một loại thì còn phụ thuộc vào nhận thức của nhân loại hiện tại.

Hiện nay loài người hiện đại vẫn ăn thức ăn từ thực vật là chính. Những nước nghèo ở Trung Phi còn đang thiếu hụt dinh dưỡng trầm trọng cả về thức ăn thực vật lẩn động vật.Trong khi đó những khu vực đã và đang phát triển lạm dụng thức ăn từ động vật đến mức quá cao như các khu vực Bắc Phi, Nam Phi, Châu Mỹ, Châu Âu, Đông Á và Châu Đại Dương.

Quá trình chuyển đổi có lẽ vẫn đang tiến triển vì loài người đang chạm ngưỡng phá vỡ sự cân bằng của tự nhiên.

(Biên tập và chỉnh sửa)
Nguồn: http://thucduong.vn/forums/index.php?showtopic=5722

Monday, June 6, 2016

Nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Nguồn gốc loài người


Bài viết được sưu tầm dẫn dắt chúng ta tìm hiểu 3 câu hỏi chính:


- Dân tộc Việt Nam có nguồn gốc từ người Trung Hoa hay dân tộc Việt Nam là gốc rễ của người Trung Hoa?


- Nguồn gốc loài người ?


- Châu Phi là cái nôi của loài người, tại sao hiện nay lại có người da đen, da vàng và da trắng?


Mọi câu trả lời đều dựa trên các di chỉ, cổ vật và mã di truyền DNA, tuy nhiên cũng chỉ là giả thuyết. Mọi giả thuyết đều có thể thành hiện thực nếu ta có chứng cứ để chứng minh. Ví dụ Nguồn gốc người da màu như hiện nay có thể do người da đen Châu Phi bị bệnh bạch tạng một phần, sự kỳ thị trong dòng tộc cũng như điều kiện sống không phù hợp là nguyên nhân những người này tìm một nơi khác có điều kiện sống tốt hơn, dẫn tới hiện tượng di cư, quá trình lai giống giữa người gốc phi và người bạch tạng hình thành loài mới.... đó chỉ là giả thuyết... 


Phải chăng đã đến lúc chúng ta đã có thể khẳng định được nguồn gốc dân tộc Việt Nam? 


Tác giả: CUNG ĐÌNH THANH


Gần đây cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc tìm hiểu nguồn gốc dân tộc. Một trong những thành tích về vấn đề này cần được lưu ý là quyển Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam của Nguyễn Khắc Ngữ do Nhóm Nghiên Cứu Sử Ðịa Việt Nam xuất bản tại Montréal (Canada) năm 1985. Nói là đáng lưu ý bởi quyển sách nhỏ này (172 trang) trình bầy những dữ kiện và áp dụng một lối lý luận rất khoa học. Theo Nguyễn Khắc Ngữ thì : “đại để có thể chia các giả thuyết (nguồn gốc dân tộc Việt Nam) thành bốn loại tiêu biểu:


- Giả thuyết con Rồng cháu Tiên


- Giả thuyết Bách Việt


- Các giả thuyết của các tác giả miền Nam


- Các giả thuyết của các tác giả miền Bắc”.


Phân chia như vậy e rằng vừa thiếu lại vừa dư. Quá thiếu vì nếu cứ ý kiến của một tác giả được kể như một “giả thuyết” thì bảng liệt kê trên còn thiếu nhiều giả thuyết chưa kể ra. Quá dư vì những giả thuyết mà Nguyễn Khắc Ngữ gọi là giả thuyết Bách Việt, giả thuyết của các tác giả miền Nam, miền Bắc … thực ra chỉ là con đẻ của một trong hai thuyết :


- Thuyết thứ nhất dựa vào văn bản (những bộ sử hay truyện của người xưa viết ra để lại) chủ trương người Việt có nguồn gốc từ phương Bắc đi xuống. Các tác giả có công xây dựng nên thuyết này đầu tiên phải kể đến những học giả người Pháp như Edouard Chavannes, Léonard Aurousseau. Nhiều học giả nổi tiếng người Việt đã phụ họa thêm vào thuyết này như Ðào Duy Anh, Trần Trọng Kim … Có điều lạ cần nhấn mạnh là những học giả người Pháp tuy có gốc thực dân, dựa vào những sách của các tác giả Trung Hoa cũng thực dân không kém như Tư Mã Thiên, Hoài Nam Tử … đã giả thuyết rằng người từ phương Bắc đây, vốn thuộc đại tộc Bách Việt, vì sự bành trướng của nòi Hoa Hán dưới thời Tần nên phải di cư xuống Bắc Việt để cùng với dân bản xứ đã có sẵn ở đó từ trước (Madrolle CL. Les populations de LIndochine, Paris 1918) lập nên nước Văn Lang.


Những tác giả vốn là người Việt nói về nguồn gốc dân mình lại không bằng những ông Tây kể trên. Nhiều người còn nghi ngờ cái nguồn gốc Bách Việt của mình, cuối cùng (đã phải là cuối cùng chưa?) còn sản sinh ra một đứa con hoang cho rằng dân Việt Nam chỉ là một bộ phận của người Trung Hoa hết đợt nọ đến đợt kia sang thực dân ở đây, khi hoàn cảnh thuận lợi đã lập ra nước riêng có tên là Việt Nam (Nguyễn Phương, GS Ðại Học Văn Khoa – Việt Nam thời khai sinh – Viện Ðại Học Huế 1965).


Mới xem giả thuyết này có vẻ không sai vì quả đã có một cuộc di cư của người từ phía nam sông Dương Tử, vùng nay thuộc các tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến, Quý Châu, Quảng Ðông, Quảng Tây đi xuống phía Nam từ khi nhà Tần thống nhất đại lục, lập ra một chính quyền trung ương dưới sự thống trị của nòi Hoa Hán (chỉ mấy trăm năm trước Công Nguyên). Tuy nhiên thuyết đó không giải thích được những điểm căn bản về sự xuất hiện của loài người đã sinh sống và đạt được một nền văn minh khá cao tại miền đất này cả chục ngàn năm, trước khi có người từ Phương bắc di cư tới. Thuyết này càng không thể hiểu được tại sao có sự xâm lấn ồ ạt của người phương Bắc đến một địa phương đã có người sinh sống trong một xã hội có tổ chức quy củ lại xẩy ra một cách êm thắm như vậy ? Ngay cả khi vua Thục chiếm Văn Lang của vua Hùng lập ra nhà nước Âu Lạc cũng tương đối êm thắm chưa kể vua Thục cũng được dân địa phương lập đền thờ như đã thờ vua Hùng. Lại nữa, khi nhà Hán đã xâm chiếm Giao Châu, chia thành quận huyện để cai trị cả mấy trăm năm, vậy mà khi Hai Bà Trưng nổi binh đánh Hán vào năm Canh Tý (năm 40 sau Công Nguyên), sử chép rằng : “Hô một tiếng mà các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Nam đều hưởng ứng. Việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay” (Lê Văn Hưu – Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư – trg 146). Dân ở Cửu Chân, Nhật Nam là dân ở vùng Bắc và Bắc Trung Việt ngày nay, chắc chắn là tổ tiên người Việt nổi lên hưởng ứng Hai Bà Trưng, lãnh tụ của mình là chuyện dĩ nhiên rồi. Nhưng còn dân Nam Hải, Hợp Phố và 65 thành thuộc Lĩnh Nam tức dân các tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, đảo Hải Nam, có thể một phần các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Giang Tây, Phúc Kiến, cả Triết Giang nữa thuộc Trung Quốc ngày nay. Vậy họ là dân nào? Chả lẽ họ là dân Hán mà lại theo lãnh tụ người Việt nổi lên đánh đuổi quan quân nhà Hán giành độc lập cho người Việt sao ? Phải chăng người phương Bắc đó với người địa phương nay thuộc Bắc phần và Bắc Trung phần Việt Nam chẳng qua cũng cùng một đại tộc ? Và sự di cư từ miền Bắc về miền Nam do sự dồn ép của Hoa tộc một phần, nhưng trước đó là do sự nước biển đã lui dần trả lại các đồng bằng sông Hồng, sông Mã màu mỡ, là phần khác, phần chính, khiến luồng người từ miền Bắc di về miền Nam cũng chỉ là sự qui cố hương của giống người trước kia đã từ miền Nam bành trướng lên miền Bắc ?


- Thuyết thứ hai dựa vào những xương sọ, đúng hơn, vào tỷ lệ tộc người căn cứ vào các sọ này đã tìm được ở phần đất nay là Bắc và Bắc Trung phần Việt Nam. Tổng số xương sọ được dùng làm đối tượng nghiên cứu còn giữ lại được cho đến nay là 70 cái, chia làm hai bảng : Bảng thứ nhất gồm 38 sọ được coi là thuộc thời đại Ðồ Ðá Mới, phần lớn do các học giả người Pháp tìm ra (29/38) và cho rằng họ thuộc các chủng tộc Malanesian, Indonesian, Australoid hay Nam Á. Bảng thứ hai gồm 32 sọ, phần lớn, ngược lại, do các học giả Việt Nam tìm thấy (22/27) trong những năm gần đây sau khi Cộng sản cho lập Viện Khảo Cổ (từ 1960). Những sọ này được coi là thuộc thời đại Ðồng-Sắt nghĩa là vào khoảng 1000 năm trước Công Nguyên đến vài ba trăm năm sau Công Nguyên, đa số thuộc chủng tộc Mongoloid. Hai bảng xương sọ này đã là nguyên nhân sinh ra những giả thuyết về nguồn gốc người Việt khác với những giả thuyết dựa vào văn bản kể trên. Tuy nhiên kết luận của các tác giả này cũng có những khác biệt đáng kể : có người cho nguồn gốc người Việt như vậy là quá trình Mongoloid hóa các sắc dân Hắc chủng (Trần Quốc Vượng & Hà Văn Tấn – Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam – Hà Nội 1963). Có người cho đành là đã có sự Mongoloid hóa hình thành nguồn gốc người Việt nhưng sự da vàng hóa này không nhất thiết được hiểu là Hán hóa mà là Mường hóa, Tày Thái hóa (Phạm Huy Thông, KCH 1&2 – 1983). Có người đi xa hơn cho nguồn gốc dân tộc Việt Nam là sự hòa đồng của các dân có nguồn gốc bản địa (Nguyễn Ðình Khoa – Các dân tộc ở miền Bắc Việt Nam – Hà Nội 1976). Riêng Nguyễn Khắc Ngữ, tuy không khác các tác giả trên bao nhiêu, nhưng ông hiểu Mongoloid là giống Mông Cổ (Mongol) ở phía Bắc nước Trung Hoa, nên kết luận của ông đương nhiên phải cho nguồn gốc người Việt trước hết là các giống Malanesian, Indonesian, Australoid từ các hải đảo Thái Bình Dương vào. Dần dần những sắc dân này bị Mongoloid hóa mà ông khẳng định là Hán hóa từ phương Bắc xuống, hình thành nên tổ tiên người Việt (trang 88, sđd).


Trước khi minh định cho thực rõ người Mongoloid từ đâu mà sinh ra ? (Ðiểm này sẽ được trình bày trong phần sau), ta cần xác định lại từ Mongoloid trong khảo cổ học không có nghĩa là người Mông Cổ của nước Mongol, cũng như Malanesian không có nghĩa là người Mã Lai, Indonesian không hẳn phải là người Nam Dương. Giản dị là khi có những tộc người này nhân loại chưa có quy chế quốc gia, tất nhiên cũng chưa có các nước Mongol, Indonesia, Malaysia … Gia dĩ, khởi thủy nhân loại chỉ coi như gồm ba đại tộc : Mongoloid là đại tộc da vàng ở Á Châu gồm hai loại : Bắc Mongoloid ở từ Ngoại Mông về phía Bắc và Nam Mongoloid ở toàn cõi đại lục Á Châu; Europoid, đại chủng da trắng ở Âu Châu; và Négro – Australoid, đại chủng da đen ở Phi Châu và các đảo Nam Thái Bình Dương.


Việc tìm thấy sọ loại Mongoloid thời Ðồ Ðồng có ít hơn thời Ðồ Ðá là do một lý do khác sẽ được làm sáng tỏ trong phần dưới đây chứ không phải vì lý do người Mongoloid đã từ phương Bắc di cư đến như trước kia đã hiểu. Hãy lấy một thí dụ : chỉ có một địa điểm Hang Nậm Tum thuộc tỉnh Sơn La vùng Tây Bắc, trong thời tiền sử người ta đã thấy có hai lớp người đến cư trú để lại nhiều công cụ, nhiều ngôi mộ, nhiều di tích khiến người ta biết được hai lớp người tại đây cách nhau khá xa : lớp đầu thuộc văn hóa Sơn Vi (Hòa Bình I, khoảng hơn 20.000 năm trước Công Nguyên), lớp sau thuộc hậu kỳ đá mới bắt đầu thời kỳ kim khí (khoảng từ 1000 năm trước Công Nguyên trở lại). Giữa hai lớp này có một khoảng cách chứng tỏ không có con người sinh sống tại đây đến mười mấy ngàn năm (Võ Quý, KCH 1&2 – 1990, trang 25).


Chỉ tiếc những xương cốt để lại toàn là những mảnh sọ, những răng nanh, xương cẳng tay, ngón tay không nguyên vẹn khiến người ta khó đoán biết chủ nhân hang động này trước kia thuộc chủng tộc nào?


Việc có hai lớp người cư ngụ tại Hang Nậm Tum thuộc hai thời kỳ khác nhau cách quãng nhiều ngàn năm tương ứng với thời kỳ biển tiến (giả thiết có sự di cư của đoàn người từ Nam lên Bắc), và biển lui (tương ứng với sự bành trướng của Hán tộc ở phương Bắc đưa đến việc di cư ngược lại của đoàn người từ Bắc xuống Nam) là giả thiết cần được suy nghĩ và nghiên cứu. Người viết sẽ trở lại vấn đề này ở phần dưới đây.


Hai giả thuyết kể trên, dù là thuyết dựa vào văn bản, hay thuyết dựa vào các xương sọ đào được mà người ta gọi là thuyết nhân chủng đều dựa vào một tiền đề căn bản. Ðó là : văn minh dân tộc Hoa Hán có trước tộc Việt; đất nước và con người Trung Hoa cũng đã có trước và từ khởi thủy đã không khác mấy với ngày nay (!).


Cái tiền đề này không biết tự bao giờ đã coi như là một chân lý bất biến mà hễ ai nói khác đi thì bị coi là dốt, là nói mò hay nói láo (!). Nay nếu cái “tiền đề” này được chứng minh là không đủ, không đúng, là sai sự thực, trái ngược cả sự thực thì tất cả những giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam kể trên, dù xây dựng trên thuyết dựa vào văn bản hay trên thuyết dựa vào sọ người cổ, đều là chuyện lâu đài xây trên bãi cát, đều trở thành sai vậy!


Việc chứng minh cái tiền đề này là không đúng, trái với sự thực chính là mục đích của người viết tham luận này.


Căn cứ vào kết quả của Hội nghị Berkeley 1978 nghiên cứu về nguồn gốc văn minh Trung Hoa, căn cứ vào những phát minh khoa học mới nhất về khảo cổ học, nhân chủng học, di truyền học (DNA), ngôn ngữ học, cả những sưu tầm về phong tục tập quán ở phần đất nay thuộc hai quốc gia khác nhau, người viết chứng minh được rằng : khảo cổ học, nhân chủng học, ngôn ngữ học, huyết thống di truyền học, cả về phong tục tập quán, đều chứng tỏ Ðại Tộc Bách Việt đã có trước, cũng đã cư ngụ tại phần đất nay là đất nước Trung Hoa, ít nhất từ phía nam sông Hoàng, trước Hán tộc. Và văn minh Bách Việt, căn bản là văn minh định cư trồng lúa nước, cũng đã có trước văn minh Hoa Hán, thuộc văn minh săn bắn và trồng lúa tắc, lúa khô. Tộc Hoa Hán khởi thủy lập quốc từ đời Thương, khoảng 1600 năm trước Công Nguyên, chỉ là một tộc ít người chiếm một vị trí nhỏ tương ứng với các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây và một phần Hoa Nam ngày nay, nhưng nhờ có tài thiện chiến, tâm lý thực dụng và văn minh vật chất, học được do tiếp xúc với văn minh Lưỡng Hà đã nhanh chóng bành trướng ra khắp đại lục và đã đồng hóa được đa số tộc Bách Việt, thâu hóa được văn minh của họ, hòa đồng với nhiều văn minh khác xây dựng nên một nước Trung Hoa vĩ đại và đa tạp như ngày nay.


Sự chứng minh này không phải để so bì hơn kém, càng không có ý chia rẽ chủng tộc mà chỉ muốn nói lên cái gốc tích thực sự, cái dòng dõi chân chính của dân tộc mình, đồng thời chuẩn bị tài liệu cho một hội nghị quốc tế về nguồn gốc văn minh Việt Nam có thể được triệu tập trong tương lai.


Ai trong chúng ta cũng biết, muốn tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt Nam, không thể không nói tới nguồn gốc con người. Phần viết dưới đây chủ yếu căn cứ vào những khám phá mới nhất của di truyền học DNA để tìm hiểu về nguồn gốc người Hoa và loài người nói chung, rồi từ đó suy ra nguồn gốc người Việt chúng ta.


KHÁM PHÁ MỚI VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI Á ÐÔNG QUA DI TRUYỀN HỌC CỦA NHÀ BÁC HỌC J.Y. CHU


Chỉ mới chưa đầy hai năm tính đến nay, một khám phá mới của nhà bác học J.Y. Chu cùng 13 đồng nghiệp khác tại các trường đại học và viện nghiên cứu lớn nhất ở Trung Hoa đã công bố một nghiên cứu thành công về Di truyền học DNA mang tên Genetic Relationship of Population in China, đăng trong Tạp chí Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia của Hoa Kỳ (The Nation Academy of Sciences – USA – Vol.95, issue 20, 1763-1768, 29 tháng 7, 1998).


Báo cáo này khẳng định nguồn gốc của người Trung Hoa, và nói chung, người Ðông Á là do giống người ở Ðông Nam Á di lên. Những người này có gốc gác từ Phi Châu đã di đến Ðông Nam Á qua ngả Nam Á từ nhiều năm trước. Riêng ở phía Bắc Trung Hoa ngày nay, những người này vào khoảng cả chục ngàn năm sau lại lai giống với người cũng từ Phi Châu di qua theo đợt sau nhưng đi theo ngả Âu Châu và Trung Á mà người ta đồ chừng nhiều lắm là khoảng 15.000 năm trở lại đây, sau đợt tan băng hà cuối cùng. Sự phát minh này đã được những nhà sinh học và nhân chủng học hàng đầu của nhân loại phụ họa và bổ túc (Cavalli – Sforza L. Alberto Piazza, 1998, Li Yin 1999) khiến nguồn gốc nhân loại Ðông Phương, trong đó có Trung Hoa và Việt Nam có thể coi như đã được khẳng định.


Xin Quí vị độc giả đọc trong số này bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Ðức Hiệp tường trình báo cáo khoa học của GS. Chu. Ở đây, chúng tôi chỉ xin Quí vị cùng chúng tôi lược qua lý thuyết về sự thay đổi cấu trúc di truyền DNA; rồi kiểm chứng lại phát minh của ông Chu bằng khảo cổ học và cổ nhân chủng học đã từng được công bố; từ đó có thể chiếu rọi vào các thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam ngõ hầu có thể chấm dứt mọi tranh cãi về vấn đề tối quan trọng có thể dùng làm căn bản cho mọi hoạt động văn hóa của chúng ta sau này.


VÀI NÉT VỀ THUYẾT THAY ÐỔI CẤU TRÚC DI TRUYỀN DNA


Các nhà khoa học đều đồng ý đây là thuyết quan trọng nhất có thể thay đổi bộ mặt nhân loại kể từ đầu thiên niên kỷ thứ ba này. Người ta đã nói đến thuyết này từ lâu nhưng việc chứng minh được về phương diện khoa học của thuyết này mới được thực hiện trong những ngày rất gần đây.


Xin hãy lấy ngày 22-2-2000, ngày mở đầu Hội nghị về Kỹ thuật Vi-Kính trong Sinh học (Optics Within Life Sciences) tổ chức ngay tại bãi biển Coogee, thành phố Sydney (Úc Ðại Lợi) làm khởi điểm thảo luận. Trong hội nghị này, nhà nữ bác học S. Kornilova, Trưởng đoàn nước Ukraine, trước kia thuộc Liên Bang Sô-viết, đã báo cáo về ảnh hưởng của phóng xạ nguyên tử đối với sinh vật tại Chernobyl nơi trước kia là địa điểm một lò nguyên tử của Nga đã bị dò làm phóng xạ thoát ra ngoài. Phóng xạ này khiến các nhiễm sắc thể vỡ ra nhiều mảnh vụn nhẹ cỡ 5.105 Dalta. Những mảnh vụn DNA này thường ở tình trạng thối rữa mang nhiều di tố 6-C gấp nhiều lần hơn bình thường, đồng thời các khoáng chất (sắt, đồng, măng gan, kẽm, chì …) lại tăng lên rất nhiều. Cái đáng sợ nhất là tình trạng này đã tăng lên theo tuổi tác các sinh vật (trong đó có người) đồng thời di truyền cho thế hệ sau với mức tăng trưởng cao hơn gấp bội. Các sinh vật nói chung và con người nói riêng mai hậu tại vùng này sẽ biến thể như thế nào còn là điều người ta phải theo dõi thêm mới khẳng định được! Phải chăng rồi sẽ có những loại người khổng lồ như khủng long hay dị dạng như người hành tinh ? (Tất nhiên theo giả tưởng của khoa học).


Ðiều quan trọng hơn nữa là người ta đã chứng minh được bằng khoa học chứ không phải chỉ bằng lý luận và linh cảm như trước kia, rằng ngoài phóng xạ nguyên tử, cấu trúc di truyền cũng có thể thay đổi theo luật tự nhiên mà trước kia được hình dung qua cụm từ đột biến di truyền. Sự đột biến di truyền này khoa học ngày nay gọi là SPONTANEOUS POINT OF MUTATION, có thể xẩy ra vì nhiều nguyên do mà 4 nguyên do sau đây cần được lưu ý :


1.- Ðột biến di truyền do độc chất đưa đến ung thư (carcinogens) như chất formaldehyde gây ra.


2.- Ðột biến di truyền vì nhiễm khuẩn.


3.- Ðột biến di truyền do tia cực tím của mặt trời.


4.- Ðột biến di truyền do sơ xuất của bộ máy tuần hoàn trong quá trình phân sinh tự tạo thường xảy ra ở hai vùng có di tố purine và pyridine. (GS. Võ Thanh Liêm, Ðại Học Monash, Báo Việt Luận, số 1460 ngày 11-3-2000).


Xin nói ngay, những hiểu biết trên, nhân loại cũng chỉ mới khám phá ra trong những năm gần đây. Muốn hiểu rõ hơn, đúng ra cần phải phân biệt khái niệm về di truyền với kỹ thuật di truyền (genetic engineering hay gene technology).


Về khái niệm di truyền, từ năm 1665 Robert Hooke là người đầu tiên đã dùng từ tế bào (cells) để diển tả cấu trúc của đối tượng ông quan sát dưới kính hiển vi thô sơ của ông. Năm 1943 cụm từ DNA (DEOXYRIBO NUCLEIC ACID) đã được dùng lần đầu để chứng minh có sự di truyền trong loài vi khuẩn, nhưng đến năm 1951 Rosalind Frannklin mới cung cấp được dữ kiện về sự cấu trúc của DNA. Khởi điểm của kỹ thuật di truyền có thể kể từ năm 1953 khi James Weston và Francis Crick mới đặt thành định đề cấu trúc di truyền DNA trong 23 cặp vòng xoắn nhiễm thể chromosomes – cấu trúc của con người hiện đại. Phải bước vào thập niên 80, kỹ thuật di truyền mới bắt đầu phát triển với kỹ nghệ sản xuất insulin (1980), với giải thưởng Nobel Hòa Bình trao cho Barbara Mc Clintock về công trình khảo cứu tính di động của genes, (1983) tiếp theo là nhiều thành tựu của thay đổi cấu trúc di truyền từng bước đạt được do tiến bộ của kỹ thuật di truyền thay DNA bằng cách chuyển đổi genes. Nhưng việc làm chủ được kỹ thuật di truyền đủ để con người có thể đoạt quyền tạo hóa trong việc tạo ra muôn loài, tăng khả năng phát hiện được nguồn gốc loài người, thì, như trên đã nói, nhân loại mới đạt được trong những năm rất gần đây mà thôi.


Một câu hỏi cần làm cho rõ nghĩa là : vậy kỹ thuật di truyền (genetic engineering) là gì ? Xin đọc định nghĩa sau đây của một cơ quan giáo dục và di truyền Úc : “Những tế bào của mọi động vật cũng như thực vật đều chứa yếu tố DNA, ví như một bảng thiết kế cho cuộc sống được lưu truyền từ đời nọ qua đời kia. DNA tạo nên gene và chính các genes đã mang tín hiệu làm cho muôn loài từ thực vật, động vật đến con người có được cái sắc thái đặc biệt như mắt xanh, da nâu … DNA có thể bị thay đổi bằng cách chuyển đổi các genes giữa muôn loài khác biệt nhau. Thí dụ : ta có thể cấy một gene từ loài cá sống ở biển Bắc Atlantic vào một cây dâu khiến cây dâu này có thể sống trong băng lạnh.


Thay đổi những genes đặc biệt với mục đích thay đổi một loại động vật hay thực vật nào đó theo phương cách đặc biệt thì được gọi là kỹ thuật di truyền vậy”


(“The cells of all plants and animals contain DNA; its like a blueprint for life, which is passed from generation to generation DNA is made up of genes, and its the genes that carry the information which make plants, animals and humans have specific charcteristics such as green eyes or brown skin … DNA can be changes by transferring genes between and within defferent living things – you might, for example, try putting a gene from a fish that lives in the vary cold seas of the North Atlanitc into a strawberry, so it can survive a frost.


Changing specific genes in order to change a plant or animal in a particular way is known as genetic engineering or genetic modification” – Choice Magazine, Feb. 1997, published by Australian Consumers Association)


Trong kỹ thuật di truyền niên đại đáng ghi nhớ là năm 1997 khi nhà bác học IAN WILMUT tại Viện Roslin Institute ở Tô Cách Lan đã chế ra “con cừu DOLLY” bằng phương pháp phân sinh tế bào (clone).


Rồi tháng 1 năm nay 2000, Ðại học Texas (USA) đã chế tạo thành công một cấu trúc DNA hoàn toàn nhân tạo.


Chính những khám phá kể trên đã phá vỡ được điểm bế tắc mà kể từ Darwin (The descent of Man – London 1874), ông tổ của thuyết TIẾN HÓA chỉ có thể lý luận được bằng lý thuyết chứ chưa chứng minh được bằng khoa học về câu hỏi : làm thế nào mà người vượn (Homo-Erectus) lại có thể biến thành người hiện đại (Homo-Sapiens) như chúng ta ngày nay ? Ðiểm này sẽ được trình bày trong những dòng sau khi ta bàn đến:


SƠ LƯỢC VỀ THUYẾT TIẾN HÓA VÀ NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI


Thuyết này chủ trương con người cũng như muôn loài trên trái đất đều từ một đơn bào phát sinh cách nay khoảng 1 tỷ rưỡi năm biến đổi sinh thành. Riêng ông tổ trực tiếp của loài người đều được các nhà nhân chủng cho là từ một giống người vượn đi thẳng bằng hai chân tên khoa học là Homo-Erectus biến hóa dần mà ra. Như ta đã biết (Ts TƯ TƯỞNG số 4 – Văn Hóa Ðông Sơn, trang 15) dấu vết người vượn hay còn gọi là Linh Trưởng cho đến nay tìm được, xưa nhất là ở Ðông Phi Châu. Người ta chia làm ba loại :


- cổ nhất thường được gọi là người Viễn Cổ (Proteo-anthropus) từ 1 triệu năm trở về trước (dấu chân người vượn homonid có thể cách đây đến 3 triệu rưỡi năm!).


- cổ thứ nhì thường được gọi là người Thái Cổ (Arche-anthropus) có từ 100.000 năm đến 1 triệu năm.


- cổ thứ ba được gọi là người Thượng Cổ (Paleo-anthropus) từ khoảng 40.000 năm đến hơn 100.000 năm trở về trước.


- sau hết là người Hiện Ðại (Neo-anthropus) là mẫu hình nhân loại ngày nay tên khoa học là Homo- Sapiens-Sapien xuất hiện cùng một loạt ở nhiều nơi mà khảo cổ tìm thấy xương cốt cách đây trên dưới 40.000 năm. Hai trung tâm tìm thấy người Hiện Ðại đầu tiên là Ðông Nam Á (Hang Nia) và Tây Á.


Một câu hỏi cần đặt ra là : có phải người Vượn Homo-Erectus từ hơn hai triệu năm trước đã tuần tự tiến hóa để trở thành người hiện đại như ngày nay không ?


Các nhà nhân chủng học hình như đã không có cùng một câu trả lời cho vấn đề này.


Người đồng ý với thuyết chủ trương từ người Vượn Phi Châu (Autralopithecus) đã chuyển thành người Hiện Ðại chỉ theo một tiến trình Sapiens hóa duy nhất là nhà sinh học nổi tiếng Weidenreich F. [On the Earliest representatives of modern mankind recovered on the soil of East Asia (Peking, Not.Hist. Bul. XIII, 1939) - A skill of Sinanthropus pekinensi (A comparative study on a primitive minid skill - Palacotologia Simica - No. 10, 1943) - The Kellor Skull : Anr. jown. of Physic Anthropology 3, 1, 1945]


Nhưng phần lớn những nhà nhân chủng khác đều cho rằng tiến trình này chỉ bắt đầu từ người Thượng Cổ (Paleo-Anthropus) mà bỏ đi hai loại Thái Cổ và Viễn Cổ, với lý do hai loại người Vượn quá xưa này có bộ óc quá nhỏ (dung tích não dưới 1000 cm3) không thể cùng một chủng loại với loài người được (não phải từ 1000 cm3 đến 2000 cm3) [Dobzhansky T. (Mankind Evolution - New Haven - London, Yale Uni. Press. 1962); Coon C.S. (The Origins of Races 1963)]. Nói một cách khác, ông tổ trực tiếp của người Hiện Ðại là người Thượng Cổ rõ hơn chỉ từ người Thượng Cổ (Paleo-anthropus) mà ra.


Ngay cả với loại người vượn Homo Erectus thượng cổ này (Paleo-Anthropus) không phải tất cả đều tiến hóa thành người Hiện Ðại. Có những loại như người Neanderthal rất phổ thông ở Âu Châu (đến nay tìm thấy được hàng trăm di tích có xương cốt loại người này) đã phát triển cách đây 150.000 năm rồi bỗng tự tiêu diệt cách đây khoảng 50.000 năm, như nhiều loài động vật khác thời đó. Giống người này có bộ óc khá phát triển (1550 cm3 so với người hiện đại bộ não trung bình là 1400 cm3). (Boule M & Vallois H. – Les hommes sossiles – Paris 1952) và như vậy người Neanderthal không phải là tổ tiên của người Châu Âu ngày nay. Di truyền học DNA xác nhận kết luận của khảo cổ học kể trên là đúng. (Krings M. & al Neanderthal DNA Sequences and the Origins of modern humans – Cell. Vol. 90. pp. 7719-7724, 1997).


Xem chừng chỉ có một loài linh trưởng qua được cái cầu thay đổi cấu trúc di truyền mà trước kia được gọi là đột biến di truyền và bước nhẩy biện chứng. Muốn hiểu tại sao thì trước hết ta phải trả lời được hai câu hỏi căn bản nữa là :


1 – cấu trúc di truyền của người vượn và người hiện đại khác nhau như thế nào ?


2 – Nếu loài người đã sinh ra từ một nguồn duy nhất mà nhân chủng học ngày nay thường gọi là từ một “bà Mẹ Phi Châu”, thì tại sao con người lại kẻ da trắng tóc hoe như người Âu Châu ? Kẻ da vàng tóc đen như người Á Châu ? Kẻ da đen tóc xoắn như đa số người Phi Châu và Hải đảo Thái Bình Dương ?


Về câuhỏi thứ nhất:


Người ta biết được rằng con người hiện đại như chúng ta ngày nay có 23 cặp vòng xoắn nhiễm thể (chromosomes) trong khi người vượn có những 24 cặp, trong đó chỉ có 5 cặp là giống người hiện đại. Do đó, trước kia, bằng lý luận và bằng linh cảm các nhà nhân chủng học đã đoán biết được người vượn đã tiến hóa để trở thành người hiện đại phải vượt được cái cầu thay đổi cấu trúc di truyền. Nhưng thời đó khoa di truyền học chưa tiến bộ nên người ta chỉ có thể lý luận có tính cách triết học là sự thay đổi này phải có nhờ bước nhẩy biện chứng : Các học giả thời ấy giả thiết khi những biến chuyển nhỏ về lượng tích lũy đến một mức nào đó có thể gây những biến đổi về chất. Trả lời như vậy là chưa thỏa đáng, không thể làm vừa ý những người đắm mình trong tinh thần khoa học, thường được mệnh danh là khoa học chính xác trước đây.


Ngày nay nhờ tiến bộ của khoa di truyền như trên đã nói, người ta hiểu, ngoài thay đổi vì phóng xạ, có thể có thay đổi cấu trúc di truyền DNA theo luật tự nhiên vì những nguyên do khoa học, như trên đã trình bày.


Vậy thì, trong các loại người vượn, đã có một loại, ở Phi Châu, hội đủ được những yếu tố khoa học để thay đổi được cấu trúc di truyền của luật Spontaneous Point of Mutation này, chuyển được DNA (translocation) của loài Homo-Erectus thành DNA của loài Homo-Sapiens mà thành người hiện đại. Việc này xẩy ra chỉ mới khoảng 100.000 năm cách ngày nay (tối đa là 200.000 năm). Vậy di truyền học DNA đã chứng minh thuyết các nhà nhân chủng học chủ trương chỉ riêng người vượn Thượng Cổ (Paleo-Anthropus) đã chuyển hóa thành người Hiện Ðại là đúng.


Về câu hỏi thứ hai:


Con người Homo-Erectus từ Phi Châu dần dà đã phân bố đi các nơi theo nhiều đợt qua nhiều giai đoạn khác nhau : đợt qua Á Châu trở thành người da vàng tên khoa học là Mongoloid, đợt qua Âu Châu trở thành người da trắng Europoid và đợt xuống Nam Phi Châu và qua hải đảo trở thành người Negro-Australoid. Những người này có vóc dáng mầu da, ánh mắt, râu tóc … khác nhau. Tại sao ?


Trước kia, câu trả lời của các nhà nhân chủng học là : vì ảnh hưởng của môi trường sinh sống (môi sinh). Ðiều này có thể hiểu theo hai nghĩa :


- nghĩa thứ nhất : môi sinh được coi là yếu tố ngoại tại,


- nghĩa thứ hai : môi sinh khi thâm nhập vào cơ thể con người dần dần đã biến thành yếu tố nội tại của con người đó.


Theo nghĩa thứ nhất: con người được dinh dưỡng tốt, có khí hậu tốt thì có thể cao lên, to ra; sống tại nới quá nóng hay quá nhiều ánh sáng mặt trời thì da có thể đen hơn; sống ở nơi môi sinh khác hẳn như người Mongoloid qua eo Bering sang Mỹ Châu, da đỏ hơn, to lớn hơn … Nhưng sự thay đổi hình dáng vì môi sinh như vậy cũng chỉ có thể đến một chừng mực nào đó. Không thể cùng một nguồn gốc hay cùng một mẹ mà kẻ da trắng mũi lõ, người da vàng mũi tẹt, người lại da đen tóc xoăn quắn. Dùng môi sinh theo nghĩa này để giải thích hiện tượng con người cùng một gốc mà vì ảnh hưởng của môi sinh đã biến thành người da trắng (Europoid) ở Âu Châu, da vàng (Mongoloid) ở Á Châu hay da đen (Negro-Australoid) ở Hải Ðảo Thái Bình Dương và các vùng khác ở Phi Châu thì có vẻ không ổn vì không đúng với khoa học và thực tế.


Nhưng nếu hiểu theo nghĩa thứ hai, vấn đề lại khác : môi trường đặc biệt có thể đưa vào cơ thể con người những yếu tố đặc biệt (như các vi khuẩn, tia cực tím do ánh sáng mặt trời, các chất độc, các khoáng sản đặc biệt … ) khiến con người khi hội đủ yếu tố có thể có sự đột biến di truyền tự nhiên mà khoa học ngày nay gọi là spontaneous point of mutation. Trong trường hợp đó nhiễm sắc thể DNA trong gene sẽ làm con người thay đổi đi về hình dáng, màu da, râu tóc, sức khỏe, tật bệnh, cả về thông minh và có thể về tác phong thiên hướng của con người như nghiện rượu, đa sát … nữa. Cái nhiễm sắc thể DNA này, một khi đã lập thành sẽ tồn tại vĩnh viễn trong con người và di truyền mãi mãi cho các thế hệ về sau.


“Genes contain the information necessary for our bodies to grow, develop and formation. Genes are made of the chemical DNA (Deoxyribosenucleic acid) which is the basic material of heridity. Genes provide the information for the cells in the form of a chemically codes “message”, knows as the genetic code”. (Fact Sheet No14 – NSW Genetic Educ. prog.)


và :


” – all yours DNA is in nearly every cell in your body.


- it influences things that make up personal identify ; height, build, shin colour, intelligence and possibly propensity for some behaviours such as alcholism.


- your genetic make up stays with you all your life it cannot be changed” (Information paper No 5 – Sept 1996 – Privacy Commissioner Human Rights Australia)


Chính vì sự bất lực của khoa học trước kia không giải thích nổi các hiện tượng như cách giải thích của di truyền học DNA vừa kể trên nên thuyết tiến hóa từ một trung tâm duy nhất không đủ sức thuyết phục, nên nhiều tác giả, kể cả người viết những dòng này trước kia, đã phải tạm quay ra thuyết nhiều trung tâm, dựa vào thuyết Tiến hóa Ðộc lập Ða địa phương (Multiregional Evolution) để giải thích về sự xuất hiện của người hiện đại. Xin đừng vội dùng thuyết lai giống để giải thích hiện tượng này vì khởi thủy đã có giống da trắng, da vàng, da đen khác nhau đâu mà lai.


Tóm lại : tuy trước kia đã có rất nhiều lý thuyết có sức thuyết phục cao, nhưng trước khi có sự khám phá về thay đổi cấu trúc di truyền DNA mà, như trên đã nói, mới chỉ phát minh ít năm gần đây, mọi cuộc bàn cãi về nguồn gốc con người nói chung, về nguồn gốc một chủng tộc nào đó như chủng tộc Hoa, chủng tộc Việt nói riêng, chỉ có giá trị thuần lý thuyết.


Trong những bài viết trước đây, chúng tôi đã chứng minh bằng những chứng tích do khảo cổ học cung cấp, là con người đã từ phương Nam (Văn Hóa Hòa Bình) di lên phương Bắc và là căn cốt thành lập nên nước Trung Hoa, kể cả các nước Nhật Bản, Triều Tiên. Tuy nhiên, lúc đó chưa có được các bằng chứng về di truyền học nên người viết còn bi lấn cấn về bảng xương sọ có tính Hắc chủng mà các học giả Pháp gọi là người Malanesian, Indonesian, Nam Á, Australoid, và được tất cả các tác giả người Việt gần đây tuân theo như một chứng tích đầy quyền uy của khoa học. Tất cả những lấn cấn này, nay nhờ di truyền học đã được sáng tỏ. Và chúng ta thấy đã đến lúc cần phải duyệt xét lại tất cả các thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam từ trước đến nay cho phù hợp với tiến triển của khoa học ngày nay.


ÐÓNG GÓP CỦA GS. CHU & ÐỒNG NGHIỆP VÀO NGUỒN GỐC NGƯỜI ÐÔNG Á QUA THUYẾT DI TRUYỀN


Như trên đã nói, xin Quý vị độc giả đọc chi tiết về báo cáo khoa học của GS. Chu và các đồng nghiệp trong số này. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh vào ba điểm căn cốt như sau :


Ðiểm thứ nhất :


Công trình khảo cứu của GS.Chu phủ nhận người Trung Hoa đã tự sinh ra và phát triển độc lập trên đất Trung Hoa như nhiều nhà khảo cổ trước đây đã chủ trương đồng thời khẳng định gốc gác của người Trung Hoa từ Ðông Nam Á di lên.


[Trích Báo cáo GS. Chu :


"Nervetheless, genetic evidence does not support an independence origin of Homo-Sapiens in China. The phylogeny also suggested that it is more likely that ancestor of the populations currently residing in East China entered from Southeast Asia"].


Ðiểm thứ hai :


Người từ Ðông Nam Á di lên đó cũng không hẳn tự phát sinh ở Ðông Nam Á mà họ đã đến từ Phi Châu qua ngả Nam Á.


[Trích Báo cáo GS. Chu :


"In both phylogenies with different loci and populations from East Asia always derived from a single lineage, indicating the single origin of those populations ... It is now propably safe to conclude that modern humans originating in Africa constitute the majority of the current gene pool in East Asia"].


Ðiểm thứ ba :


Và, sau khi phối kiểm với kết quả của khảo cổ học như việc đo đạc xương cốt sọ mặt … GS. Chu kết luận riêng người phương Bắc Trung Hoa sau khi đã từ Ðông Nam Á di lên sau lại lai giống với người từ Trung Á và Âu Châu di cư đến. (Có lẽ đây là tổ tiên của người Hoa Hán lập nên nhà Thương – Người viết ghi thêm).


[Trích Báo cáo GS. Chu :


"The northern populations were under strong genetic influences from ALTAIC populaitons from the North. But it is unclear how Altaic populations migrated to Northeast Asia. It is possible that ancestral Altaic pop. arrived there from middle Asia, or alternatively they may have originated from East Asia".


và :


"Therefore, it is likely that ancestors of Altaic speaking people originated from an East Asia population that was originally derived from South Asia, although the current Altaic-speaking populations undeniably admixed with later arrivers from mid-Asia and Europe"].


Như thế là đủ rõ.


Trong những bài viết trước, chúng tôi đã chứng minh người thuộc Văn hóa Hòa Bình Từ Ðông Nam Á mà điểm chính có thể từ Bắc Việt Nam đã di cư lên góp phần thành lập nước Trung Hoa. (TƯ TƯỞNG số 2 – Nguồn gốc dân tộc Việt Nam; số 3 – Biển tiến và Sự thuần hóa cây lúa nước; số 4 – Văn hóa Ðông Sơn). Nay thì di truyền học đã chứng minh không phải người Ðông Nam Á chỉ góp phần mà thực ra đã đóng vai trò chính, đã là tuyệt đại bộ phận của nhân chủng lập nên nước Trung Hoa. Ngay cả những người ở phía Bắc Trung Hoa cũng chỉ là người lai giữa giống từ Ðông Nam Á di lên với giống từ phương Tây (ngưới Âu?) di lại. Và việc đó cũng chỉ diễn ra nhiều lắm từ 15.000 năm trở lại đây mà thôi.


Sự khám phá của Gs. Chu và các đồng nghiệp đã được các học giả khắp nơi hưởng ứng. Nhiều học giả đã bổ khuyết thuyết của Ông Chu bằng những tham luận giá trị. Xin kể ra đây ba khuynh hướng đáng lưu ý nhất :


Khuynh hướng 1 :Trước hết, phải kể đến nhà di truyền học rất nổi danh vì đã đóng góp cho nhân loại nhiều công trình nghiên cứu giá trị là GS. Cavalli-Sforza. Ông đã chứng minh từ năm 1997 trước khi có sự công bố công trình nghiên cứu của GS. Chu là người từ Châu Phi đã đến Ðông Nam Á qua ngả Nam Á, rồi từ Ðông Nam Á họ đã chia hai ngả : một ra các hải đảo thuộc Châu Ðại Dương để trở thành những người mà sau này các nhà nhân chủng học gọi bằng nhiều tên như Malanesian, Indonesian, Australoid; và một ngược phía bắc lên Ðông Á rồi vượt eo Bering sang Mỹ Châu. (Cavalli-Sforza – genes, people & languages – Proc. Natl. Acad. Sci. – USA, Vol. 194 pp. 7719-7724, 1997). Câu hỏi cần được đặt ra là : Tại sao cũng từ Ðông Nam Á ra đi mà người ra hải dảo thì da sậm, tóc xoăn; trong khi người ngược phía Bắc lại thuộc da vàng, tóc đen? Cần phải có sự nghiên cứu về di truyền học và có thêm tài liệu khảo cổ để trả lời câu hỏi này cho xác đáng. Trong hoàn cảnh tài liệu hiện có, chỉ có thể giả thiết, người từ Phi Châu đến Ðông Nam Á rồi tiện đường (lúc này nước biển thấp nên có nhiều cầu nổi nối liền Ðông Nam Á đến hải đảo) ra hải đảo Thái Bình Dương trước. Trong khi trụ lại Ðông Nam Á, họ đã hội đủ các yếu tố khoa học để có được một sự thay đổi cấu trúc di truyền lần hai, biến từ giống da đen sang giống da vàng trước khi họ tiến lên phía Bắc. (Xin đọc lại đoạn trên về sự thay đổi di truyền DNA là nguyên nhân thay đổi vóc dáng, mầu da, mầu mắt, mầu tóc …). Vậy phải chăng người Hắc chủng từ Phi Châu đến Ðông Nam Á rồi nhờ hội đủ yếu tố khoa học, đủ cơ duyên, đã biến đổi thành người da vàng mà sau này nhân chủng học gọi bằng tên Mongoloid. Từ đó họ đã tỏa lên phía bắc vượt sang Châu Mỹ tạo thành người Da Ðỏ. Một nhánh khác của Hắc chủng khi đến Âu Châu đợt sau đã nhờ thay đổi cấu trúc di truyền DNA mà thành Bạch chủng, sau này gọi là Europoid. Ðại chủng Vàng Mongoloid ở Á Châu, và Ðen Negro-Australoid ở Phi Châu và các hải đảo Thái Bình Dương, và Trắng (Europoid) ở Âu Châu nay lan sang nhiều nơi khác như Bắc Mỹ, Úc Châu … là ba đại chủng chính của nhân loại ngày nay.


Khuynh hướng 2 :Ðến năm 1999, một học giả khác người Trung Hoa, GS. Li Yin, đứng đầu một nhóm khoa học gia về di truyền học (Ðại học Stanford) đã nghiên cứu cùng một vấn đề trên. Báo cáo của ông củng cố thuyết của ông Cavalli-Sforza mà còn chi tiết thêm thuyết con người có gốc duy nhất từ Phi Châu đã di cư đi các nơi khác qua ba đợt như sau :


Ðợt 1 : Từ Phi Châu đến Nam Á rồi xuống Châu Ðại Dương.


Ðợt 2 :Từ Phi Châu đến Ðông Nam Á qua ngả Nam Á; rồi từ Ðông Nam Á chia hai ngả, một đến các hải đảo Thái Bình Dương, một ngược lên phía bắc đến Ðông Á và Bắc Mỹ.


Ðợt 3 : Từ Phi Châu đến Tây và Trung Á rồi từ đó chia hai : một nhóm đi lên Âu Châu rồi qua Bắc Mỹ; một nhóm đi qua Nam Á và vào Bán đảo Ấn Ðộ. Kết quả về di truyền của GS. LiYin về sự di cư của người Phi Châu thực ra cũng không khác nhiều với thuyết di cư do các nhà nhân chủng học mà tiêu biểu là Charles Higham đã vẽ ra bản đồ từ năm 1996 (Li Yin & N. – Distribution of halotypes from a chrosmosomes 21 Region-distinguishes multiple prehistoric human migrations – Proc. of Natl. Acad. Sci. – USA, Vol. 96 pp. 3796-3800, 1999).


Khuynh hướng 3 :Một tác giả nổi tiếng khác ủng hộ và làm sáng tỏ thêm kết quả nghiên cứu của GS. Chu là GS. Alberto Piazza ở Ðại học Torino, Ý Ðại Lợi, ông nhắc lại ba mô hình được các học giả trước đây đưa ra về nguồn gốc người Trung Hoa là :


Mô hình 1 : Chủ trương nguồn gốc người Trung Hoa ở Hoa Nam là từ Hoa Bắc di xuống rồi hợp chủng với những người Australoid đã có sẵn ở đó.


Mô hình 2 : Chủ trương ngược lại cho người Hoa Nam đã di cư lên Bắc và người phía Bắc Trung Hoa chỉ là hậu duệ của người Phương Nam di cư lên.


Mô hình 3 : Chủ trương hai giống người ở Hoa Bắc và Hoa Nam tiến hóa và phát triển độc lập với nhau qua ba trung tâm chính Yang-Shao, Ching Lien Khang và Ta-Pen-Keng.


Ông kết luận : mô hình thứ hai (Bắc là hậu duệ của Nam Trung Hoa), người phương Bắc có sau và do từ người phương Nam di cư lên sinh ra, phù hợp với các dự kiện về di truyền học theo khảo cứu của GS. Chu và đồng nghiệp hơn. Những sự nghiên cứu khác dù về di truyền (Cavalli-Sforza), hay về khảo cổ như nghiên cứu về răng (Turnen C. G.); về sọ ( Hanihara T.) của người cổ ở Trung Hoa cũng hậu thuẫn cho mô hình hai này. (Alberto-Piazza – Human Evolution : Towards a genetic history of China – Proc. of Natl. Acad. Sci. – USA, Vol 395, No 6707, 1998).


Trước khi kết luận bài viết này, chúng tôi có ý định lược duyệt các thuyết đã có về Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam và trình bày những ưu khuyết điểm của chúng trước khi đưa ra kết luận chung cuộc cho vấn đề. Nhưng viết đến đây tôi thấy việc làm này cũng không cần thiết nữa. Chung qui thì những thuyết về nguồn gốc dân tộc ta từ trước đến nay, dù do người ngoại quốc viết, dù do người Việt Nam viết cũng chỉ qui về hai mô hình như đã trình bày ở phần mở bài : mô hình 1 căn cứ vào văn bản chủ trương người Việt là hậu duệ của những người từ phương Bắc di cư xuống; mô hình 2 căn cứ vào bảng tỷ lệ xương sọ thời Ðồ Ðá Mới do người Pháp thành lập trước kia và mới được bổ túc vào thập niên 60, chủ trương người Việt là hậu duệ những người thuộc Hắc Chủng từ Hải đảo Thái Bình Dương di vào sau phối hợp với những người Mongoloid từ phương Bắc di cư xuống mà thành. Tất cả những khảo cứu về di truyền học DNA , như vừa trình bày ở trên, đều khẳng định cả hai mô hình trên là sai, là ngược lại với sự thực. Người viết, bằng vào những kết quả mới nhất của khảo cổ học về thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng, về sự thuần hóa lúa nước … cũng đã chứng minh những thuyết ấy là sai sự thực (Tập San TƯ TƯỞNG số 1, 2, 3 và 4). Những chứng minh này hổ trợ cho các kết luận về di truyền học như vừa kể. Chúng tôi sẽ trình bày các sưu khảo khác về đồ gốm, về ngôn ngữ, văn tự, về các phong tục tập quán, nói chung về văn hóa, tất cả đều chứng minh tộc Bách Việt đã có trước và di cư lên phía Bắc để lập ra nhiều nước khác nhau trước khi thống nhất dưới bạo lực của nhà Tần thành nước Trung Hoa như ngày nay. Văn hóa Việt cũng đã có trước rồi sau này tiến hóa thành văn hóa Hoa ăn khớp nhịp nhàng với kết luận của các khảo cứu về di truyền học vừa được công bố trong vài năm gần đây.


Thuyết của GS. Nguyễn Khắc Ngữ cũng như các GS. Ðại Học Hà Nội về người Hắc chủng ở hải đảo vào lai giống với người Mongoloid là tổ tiên của người Việt ngày nay và thuyết của các học giả Pháp và các học giả người Việt lớp cũ từ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư đến Ðào Duy Anh, Trần Trọng Kim … nói về nguồn gốc người Việt là hậu duệ của người từ phương Bắc xuống phải được đảo ngược lại mới đúng với sự thực.


Người viết xin kết luận bài này với lòng mong ước những nhà di truyền học Việt Nam, trước hết xin bổ khuyết cho phần viết của chúng tôi liên quan đến di truyền học DNA trong những dòng viết ở trên để những tài liệu này được hoàn chỉnh hơn. Thứ nữa, nếu có thể được, xin sớm thực hiện một cuộc khảo cứu về di truyền học DNA cho người Việt Nam, như trường hợp GS. Chu và đồng nghiệp của ông vừa thực hiện đối với người Trung Hoa ngỏ hầu có thể khẳng định và làm rõ rệt thêm rằng người Hòa Bình, đã di cư từ Châu Phi đến, nhưng đã trụ ở Ðông Nam Á và nhờ đó đã có một sự chuyển hóa di truyền lần thứ hai tại đây nhờ những thay đổi về DNA trong nhiễm sắc thể khiến từ người da đen gốc Châu Phi dã chuyển hóa thành da vàng Châu Á trước khi di cư lên phía Bắc. Nhờ vậy Ðông Nam Á (trong đó có Việt Nam) trở thành cái nôi người da vàng cổ nhất của nhân loại tại phần đất không những ở Ðông Nam Á mà ở cả toàn cõi Châu Á vậy.


(Viết tại Sydney, Nam Bán Cầu, nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng Ba năm Canh Thìn, 14/4/2000)


Nguồn: minhtrietviet.net/Tập san Tư Tưởng (Australia), số 7